Phép chữa đồng căn có tác dụng không?
Từ khóa tìm kiếm: Hãy Trả Lời Em Tại Sao? – Tập 10 – Arkady Leokum
Ý tưởng về phép chữa vi lượng đồng căn (bắt nguồn từ Hy Lạp có nghĩa là “nỗi đau tương tự”) cách đây hơn 2.500 năm theo nhà y học Hippocrates, người cho rằng “bằng những chất tương tự với chất do một căn bệnh sinh ra và bằng việc thêm vào các những thứ tương tự, các bệnh nhân có thể lấy lại sức khỏe từ tình trạng bệnh tật”. Nói nôm na đây là liệu pháp “lấy độc trị độc”, nhưng với lượng thuốc cực nhỏ. Điều đó nghe có vẻ điên rồ cho đến khi một người nhận ra rằng đó là nguyên tắc của tiêm chủng. Góp phần thành công cho ý tưởng đó, một số nhà y học – đặc biệt là nhà y học thế kỉ 18 người Đức Samuel Hahnemann – tự hỏi rằng liệu một ý tưởng tương tự có hiệu quả không cho các bệnh tật không lây nhiễm. Hahnemann tin rằng có một kinh nghiệm ủng hộ cho ý tưởng này, đó là thuốc kí ninh, một loại thuốc trị sốt rét rất hiệu quả trích từ vỏ cây canh-ki-na.
Tuy nhiên, Hednemann vấp phải vấn đề: đó là một liều lượng quá cao sẽ gây hại. Vì vậy, ông đã hòa tan và lắc các chất trích từ cây canh-ki-na và thực hiện phép chữa bệnh đồng căn trái ngược với khoa học thông thường, do ông khẳng định rằng, lượng dung môi càng lớn, thuốc càng hiệu nghiệm. Phát hiện này của ông không chỉ đơn thuần là một nghịch lý mà trong nhiều trường hợp, mức độ của dung môi không chỉ là phân tử đơn do chất ban đầu được trích ra còn lại.
Trong khi giới khoa học nghi ngờ hiệu quả dung môi và than thở về việc thiếu các lời giải thích rõ ràng, dân chúng có vẻ như không nghi ngờ gì phát hiện trên nhưng còn câu hỏi: liệu phép chữa đồng căn có tác dụng không?
Cho đến nay, hiểu biết về kĩ thuật gây mê vẫn rất nghèo nàn nhưng chưa có nhà khoa học nào bác bỏ việc sử dụng nó trước khi phẫu thuật. Điều đó nói lên rằng, chúng ta chắc chắn đúng khi yêu cầu những chứng cứ xác đáng hơn về hiệu quả của liệu pháp vi lượng đồng căn chứ không chỉ đơn thuần là những giai thoại. Các nghiên cứu về liệu pháp vi lượng đồng căn không phải là ít: có hàng trăm nghiên cứu trong các tài liệu y khoa. Đáng buồn là, chất lượng của chúng thường kì cục và không thể đưa ra một kết luận chắc chắn. Kết quả thường không chính xác do thí nghiệm không phải là “thí nghiệm mù kép” (cả các bệnh nhân và bác sĩ điều trị cho họ đều không biết ai là người nhận liệu pháp trị bệnh thật và ai là người chỉ được điều trị bằng tâm lý). Các nghiên cứu chống đối, ngược lại thường rất nhỏ, họ thường ít có cơ hội để phát hiện ra bất cứ thứ gì ngoại trừ sự ấn tượng mạnh về tính hiệu quả của liệu pháp.