Tớ đã học TIẾNG ANH như thế nào?
GAME 1: NHẮM MẮT ĐOÁN MẪU.
Trò này cực dễ nhưng mà cực vui! Thế này nhé, tớ và mẹ ngồi trước một cái hộp có đựng rất nhiều bút chì màu. Oẳn tù tì xem ai sẽ chơi trước. Người chơi sẽ nhắm mắt và rút một chiếc bút bất kì, sau đó sẽ được hỏi người kia bằng ba câu tiếng Anh dưới dạng Yes/No Question (câu hỏi Đúng/Sai), ví dụ: Is it red? Và đến câu cuối cùng thì phải nói là chiếc bút đó màu gì. Kết thúc trò chơi ai đoán được nhiều bút hơn là thắng. Trò này tớ hay chơi khi bắt đầu đi học tiếng Anh. Trong tiếng Anh, việc đặt câu hỏi thường khó hơn là những câu miêu tả vì thế trò chơi này rất có lợi. Các ấy cũng có thể thay đổi nội dung ví như không tìm hiểu về màu thì tìm hiểu về vật cũng được.
GAME 2: GẮP TỪ
Để chơi được trò chơi này bạn cần chuẩn bị trước một tờ giấy to, trên đó, bạn viết các từ thuộc hai chủ đề khác nhau, ví dụ như: các loại rau và các loại quả. Nhớ là khi viết phải viết lẫn lộn, càng khó phát hiện càng tốt, thậm chí có thể thêm các từ khác không cùng chủ đề. Bây giờ thì bạn cùng mẹ (bố) có thể chơi được rồi. Hai người sẽ tự chọn cho mình chủ đề và phải “nhặt” bằng được các từ thuộc chủ đề đó bằng cách khoanh màu khác nhau. Ai tìm ra nhiều từ hơn trong cùng một khoảng thời gian sẽ thắng. Trò chơi này gay cấn ra phết đấy vì chỉ có một tờ giấy, hai mẹ con phải “chen vai huých cánh”, ai cũng muốn tìm được nhiều từ. Được cái mắt tớ tinh hơn nên dễ thắng, nhưng nếu không nhớ từ là dễ bị “gắp nhầm” lắm đấy. Cho nên trò chơi này sẽ rất tốt cho việc tăng thêm vốn từ vựng.
GAME 3: TÌM TỪ THEO CHỦ ĐỀ
Muốn nhớ được nhiều từ trong tiếng Anh, kinh nghiệm của tớ là phải cho những từ vào một chủ đề, tớ gọi công việc này là “nhặt từ vào trong giỏ”. Mỗi từ có một giỏ riêng, như những quả trứng hồng đặt trong ổ trứng vậy. Khi nào cần, bạn chỉ cần ấp ủ một hồi là các quả trứng ấy sẽ cho bạn những chú gà xinh xắn lắm, ví dụ như một bài hát tiếng Anh vậy. Vì thế, trong khi chơi cùng mẹ, tớ rất thích chơi trò tìm từ theo chủ đề. Tớ thường là người được chọn chủ đề, thế là tớ cứ chọn chủ đề nào mà tớ biết nhiều nhất, mẹ tớ cứ gọi là thua đứ đừ. Nhưng cũng có khi mẹ tớ bắt phải oẳn tù tì, thế là khi mẹ tớ thắng, mẹ ra những chủ đề rất chi là “con gái” như: làm đẹp này, nấu nướng này, để gỡ bí, tớ lại phải xin thêm thời gian để còn đi lục từ điển. Đây là ví dụ của tớ về việc cho từ vào trong giỏ nhé!
Giỏ 1: Các từ chỉ thời gian: Second, minute, day, hour, clock, month, year, night, morning, afternoon…
Giỏ 2: Các từ về khoa học: Evaporation, condensation, circuit, battery, measure, thermometer, electricity, conductor, insulator, hypothesis…
Giỏ 3: Các từ về địa lý: River, lake, mountain, valley, ocean, climate, population, settlement…
Đấy, các ấy thấy chưa, nếu cứ cho từ vào những chiếc giỏ xinh xắn như thế, chẳng mấy chốc chúng ta cất được khối những quả trứng. Và khi nào cần, các ấy chỉ cần đem ra, từng quả, từng quả một, tiện lợi và dễ nhớ vô cùng. Bố tớ nói rằng, kinh nghiệm để nhớ lâu là việc sắp xếp các từ trong đầu mình phải có trật tự. Các ấy hình dung nhé, các kiến thức mình tích lũy được nếu để lộn xộn thì khi cần sẽ rất khó tìm, như anh bạn cẩu thả hay để các thứ đồ lung tung thì đến khi đi học sẽ chẳng biết áo của mình ở đâu, mũ rồi giày của mình cũng biến đâu mất. Nhưng ngược lại, nếu tất cả được sắp đặt như trong một thư viện, bạn cần sách khoa học à, có ngay, bạn cần truyện tranh, xin mời… cứ thế, các bạn sẽ sẵn sàng “huy động” vốn từ, đúng không nào?
GAME 4: TÌM TỪ THEO “ĐUÔI”
Chà chà, cái này thì hơi khó hơn đây. Tớ hay thua mẹ tớ trong trò chơi này nhưng đó là chỉ khi mới bắt đầu chơi thôi. Còn bây giờ khi đã có trong tay một quyển từ điển Anh – Anh do các cô giáo ở trường tặng, tớ cứ gọi là thắng giòn giã, đến nỗi mẹ tớ còn phải ngạc nhiên. Từ khi có quyển từ điển mới, mỗi lúc rảnh rỗi, tớ lại mang ra đọc và ghi chép những từ mà tớ thấy là đặc biệt, chẳng hạn những từ có “đuôi” giống nhau. Và tất nhiên, từ nào tớ cũng ghi kèm theo cả nghĩa tiếng Việt nữa. Đây cũng là “bí quyết” học ngoại ngữ mà bố tớ bày cho tớ, đó là luôn mang theo quyển sổ ghi từ mới và kiến thức ngữ pháp mà mình cần ghi nhớ. Chính vì thế, trong trò chơi này, tớ luôn làm mẹ bất ngờ. Để chuẩn bị cho trò chơi, trước hết hai mẹ con đi tìm “đuôi” đã. Có những chiếc đuôi định sẵn nhưng cũng có những chiếc đuôi ngẫu nhiên được tìm ra.
Hồi đầu tiên, để cho dễ chơi, mẹ tớ thường cho tìm từ với những chiếc đuôi đơn giản như “er” chẳng hạn, thế là tha hồ tìm vì chắc các ấy cũng nhớ, có rất nhiều động từ trong tiếng Anh khi thêm đuôi “er” là thành các danh từ chỉ người như: driver, worker, teacher, typer… Sau này, mẹ tớ cho tìm với những cái đuôi khó hơn nhiều. Ví dụ như từ có đuôi là “an” chẳng hạn. Nếu là bạn, bạn sẽ tìm được những từ nào. Còn tớ, tớ tìm được là: can, fan, man, ban, pan, tan, van, clan. Thế còn với đuôi là “op” thì sao, bạn tìm có giống tớ không: bop, lop, cop, hop, mop, pop, sop, top, chop, clop, drop, shop, slop.
Thế nào, các ấy thấy trò chơi này có vui không? Nhưng nhớ là khi chơi, các ấy phải viết được từ ra và phải nói đúng nghĩa tiếng Việt của từ ấy nhé. Nhiều lần tớ viết được rồi mà nghĩ mãi không ra nghĩa của nó, thế là không được tính, tiếc ơi là tiếc. Cũng có khi cả hai mẹ con nghi ngờ không biết có từ này thật không, thế là lại phải nhờ đến từ điển. Mà để dễ thắng, các ấy cũng cần để ý quan sát một chút nhé, nếu những đuôi nào mà bắt đầu bằng nguyên âm (như a, o, i, e) thì các ấy nhớ tìm cho nó một cái đầu bằng phụ âm và ngược lại, có như thế việc tìm từ mới nhanh được và mình mới dễ thắng, đúng không nào?
GAME 5: GHÉP TỪ NHANH
Trò chơi này thì chắc các ấy đã được làm quen nhiều ở lớp rồi, thông thường trong các bài kiểm tra của chúng mình bao giờ cũng có một bài yêu cầu ghép hoặc nối giữa từ với hình. Nhưng tớ và mẹ tớ đã thay đổi hình thức đi một chút, các ấy xem tớ và mẹ tớ đã làm như thế nào nhé. Đầu tiên là ghép giữa từ với từ. Trong tiếng Anh có nhiều từ để riêng ra có nghĩa và khi ghép lại với nhau lại tạo ra một nghĩa khác. Nhớ được những từ ghép kiểu này rất quan trọng. Nó sẽ giúp ích bạn rất nhiều khi viết và đọc hiểu. Chính vì thế, tớ và mẹ thường chia các từ này thành hai cột sau đó nối lại với nhau.
Để cho hấp dẫn, tớ thường cho các từ này khi thì ở trong những chiếc bánh xe, khi thì ở trong những chiếc mũ và có khi lại ở trong những hình mặt cười. Sau đó trò chơi bắt đầu. Tất nhiên là phải thật nhanh, nhìn thật tinh. Khi tìm được từ nào, phải đọc to từ đó lên và nói nghĩa thì mới được tính điểm. Các ấy ạ, phải thật cẩn thận nhé nếu không sẽ tạo ra từ mà chẳng có nghĩa gì đâu. Bây giờ các ấy thử nối xem với cột như thế này thì các ấy nối được bao nhiêu từ nhé!
farm | milk |
barn | melon |
butter | house |
water | barrow |
hay | yard |
scare | stack |
wheel | crow |
Thế nào, các ấy làm đúng cả chứ. Đây là những từ tớ ghép được nhé: Barnyard, buttermilk, watermelon, haystack, scarecrow, wheelbarrow.
Các ấy biết không, có khi ghép xong lại tạo thành bữa tiệc ấy chứ. Vì tớ rất khoái khi nói đến những món ăn cho nên mẹ tớ cũng hay cho những từ có liên quan đến ăn uống. Có khi chơi xong một trò mà tớ thắng, thế là mẹ tớ thưởng cho tớ được xuống bếp chế biến món ăn mà tớ thích và thưởng thức luôn. Nói đến đây tớ lại nhớ hồi mới học tiếng Anh, tớ cũng rất hay quên các từ, nhất là quên cách đọc của chúng. Mẹ tớ bèn cải thiện tình hình bằng cách toàn cho tớ học những từ “rất ngon” như: banana, strawberry, cake… Nhưng buổi học không diễn ra ở trong phòng học đâu mà là ở… trong nhà bếp. Ví dụ mẹ nói: Hôm nay, mẹ con mình sẽ làm món bánh với banana nhé, đi tìm và bóc cho mẹ two bananas nào. Cứ thế, mẹ nói, tớ nhắc lại và làm theo.
Đến khi có món bánh thơm phức đặt lên đĩa là tớ nhớ từ, nhớ cả cách dùng từ với số nhiều và nhớ luôn cả cách làm bánh nữa. Có hôm khi ở lớp học về mix fruit, mẹ còn dạy tớ vừa làm vừa hát, tất nhiên là những bài hát tự bịa ra rồi, miễn sao món “mix” của mình có tên tiếng Anh của càng nhiều loại quả càng tốt. Nhìn chung tớ cực thích cách học này, chỉ tội học một thời gian theo cách này tớ tăng cân vù vù mà mẹ lại mệt phờ nên sau này, chỉ là những món ăn tưởng tượng thôi. Tuy vậy cũng rất hấp dẫn, đúng không các ấy?
GAME 6: TÌM TỪ ĐỒNG NGHĨA, TỪ TRÁI NGHĨA
Chắc là các ấy biết khái niệm thế nào là “từ đồng nghĩa”, “từ trái nghĩa” rồi đúng không. Đó là những từ mà có nghĩa giống nhau hoặc trái ngược nhau. Ví dụ như ở tiếng Việt, từ “đẹp”, từ “xinh” là hai từ đồng nghĩa với nhau. Và trái nghĩa với chúng sẽ là “xấu”. Tìm hiểu về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa thì hay cực kì. Tớ thường hay nhờ đến “quyền trợ giúp” là bố khi muốn tìm những từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa trong tiếng Việt. Bố cũng thường đố tớ những bài rất vui về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa. Trong tiếng Anh, cũng có những từ trái nghĩa (antonym) và từ đồng nghĩa (synonym), tuy nhiên, tớ nhận thấy, chúng mình thường học từ mà ít khi để ý đến những từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa của chúng. Điều này sẽ làm hạn chế khả năng đọc hiểu của chúng mình đấy bởi vì trong cách viết của người nước ngoài, người ta rất hay dùng từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa. Tớ đã có lần ngồi cắn bút trước những từ “rất lạ” nhưng khi tra nghĩa của chúng thì mới ồ lên, hóa ra mình đã học những từ có nghĩa như thế này rồi. Để củng cố về từ đồng nghĩa, tớ và mẹ khi tìm được những từ có nghĩa giống nhau lại ghi ra một tờ giấy, ghi lộn xộn chứ không theo dòng kẻ đâu. Vài ba hôm, khi thấy tờ giấy đã có vẻ nhiều nhiều từ là hai mẹ con lại bắt tay vào việc phân loại. Lại “chen vai huých cánh”, xô đẩy huỳnh huỵch để tìm được đúng từ đồng nghĩa. Cứ những từ đồng nghĩa với nhau thì có chung một kí hiệu, hoặc là khoanh tròn, hoặc là gạch chân. Bây giờ các ấy thử tìm các từ đồng nghĩa có trong “một giỏ” lộn xộn dưới đây bằng cách gạch chân và nếu từ trái nghĩa của chúng thì các ấy khoanh tròn nhé: