Tập 5: Nước Âu Lạc

Bàn thờ Nỏ Thần ở Cổ Loa

An Dương Vương vô cùng quý Nỏ Thần, đem treo ở chỗ nằm để được hàng ngày ngắm nghía và cũng để bảo vệ an toàn cho món vũ khí có một không hai ấy.

Từ đấy, kinh đô của An Dương Vương có thành Cổ Loa bảo vệ, đất nước Âu Lạc có Nỏ Thần giữ an. Khắp nơi dân chúng sống đời thịnh trị, hạnh phúc.

Các nước láng giềng chung quanh thường kính nể và thường qua lại giao hiếu cùng trao đổi buôn bán. Riêng nước Tần khổng lồ ở phương bắc lại có tham vọng bành trướng, nhà vua đã phải dùng đường lối ngoại giao mềm dẻo để tránh sự đổ máu của dân chúng. Có câu thơ ca tụng thời ấy như sau:

Nhờ Nỏ ấy giữ an bờ cõi,

Năm mươi năm vui hội thanh bình. Thờ Tần vua đã nhún mình,

Vẫn còn chưa vẹn mối tình bang giao. (*)

* Thơ của Đãi Sinh Vũ Huy Chân trong Việt Sử Thông Lãm (Sài Gòn, 1973, tr.13).

Cho đến nay, hàng mấy ngàn năm đã trôi qua mà dấu tích Cổ Loa còn để lại nhiều đoạn thành ở huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Trong lòng đất Cổ Loa, các nhà khảo cổ còn đào được hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh. Về sau, hàng năm cứ vào mùng 6 tết, dân chúng mở hội Cổ Loa để kỷ niệm ngày vua nhập cung. Và thành Cổ Loa xứng đáng là niềm tự hào của dân tộc.

Ai về qua huyện Đông Anh,

Ghé thăm phong cảnh Loa thành Thục Vương.

Di tích còn lại của một đoạn thành Cổ Loa

LÝ ÔNG TRỌNG

Vào khoảng cuối đời vua Hùng thứ mười tám, ở làng Chèm (nay thuộc ngoại thành Hà Nội), có một người trai dị thường tên là Lý Thân. Thân mình anh ta cao to quá khổ, cao đến hai trượng sáu thước ta (khoảng hơn 3m). Chân tay anh ta cũng to dài, vạm vỡ, các cuộc thi vật tay trong hội làng hàng năm anh đều đoạt giải nhất. Sức mạnh của anh không trai làng nào địch nổi, họ rất nể trọng và gọi anh là Ông Trọng.

Bố mất sớm, Lý Ông Trọng sống cùng mẹ trong ngôi nhà nhỏ rách nát đầu làng, gần bên sông Cái (*). Một hôm người mẹ ra sông lấy nước, bị một con thuồng luồng nơi vực sâu bắt mất. Thời ấy thuồng luồng là giống thủy quái gây nhiều tai vạ cho người dân. Bởi vậy dân Lạc Việt có tục xăm mình cho giống các loài thủy quái để mong chúng không làm hại mình.

  • Sông Cái tức là sông Hồng bây giờ.

Được tin, Ông Trọng quyết tâm trừ diệt con thủy quái để trả thù cho mẹ và bảo vệ cuộc sống yên ổn của dân làng. Chàng bèn dùng sức đắp đê chắn ngang khúc sông có thuồng luồng, rồi tát cạn nước. Đợi khi đáy sông lộ ra, chàng nhảy xuống dùng đôi tay lực lưỡng, tóm cổ con thuồng luồng lôi thẳng lên bờ.

Ngay trên bến sông, chàng xé xác con thuồng luồng làm lễ tế mẹ và dân làng bị hại. Sau đó, chàng nổi lửa nướng thịt thuồng luồng rồi một mình ăn cho bằng hết. Tục truyền rằng, từ đó, cả khúc sông Cái trước làng Chèm vắng bóng loài thủy quái hung dữ. Dân làng ngày càng khâm phục và yêu quý chàng.

Một lần, trong một cuộc đấu vật, Lý Ông Trọng lỡ tay làm chết người. Thời bấy giờ, những vụ trọng án như giết người đều phải do nhà vua trực tiếp xét xử. Vua Hùng thấy chàng vừa có sức khỏe lại có tài trí, không cố ý giết người nên giảm tội cho. Chàng được sung vào đội thị vệ hầu hạ và bảo vệ nhà vua. Nhờ vậy, chàng có dịp lập nhiều chiến công, nức tiếng là một người vũ dũng tài trí.

Đến thời An Dương Vương, Lý Ông Trọng vẫn được trọng dụng. Khi nước Âu Lạc lệ thuộc vào nhà Tần phương bắc, tiếng tăm của Lý Ông Trọng khiến Tần Thủy Hoàng phải hâm mộ. Nhà Tần cho sứ sang đòi nước ta phải cống nộp Lý Ông Trọng. An Dương Vương không có cách gì từ chối đành để Lý Ông Trọng sang Tần, giữ tình hòa hiếu giữa hai nước.

Đoạt được Lý Ông Trọng, Tần Thủy Hoàng mừng lắm. Bấy giờ ở phương bắc nước Tần, quân Hung Nô thường xuyên xâm phạm bờ cõi. Vua Tần phong chàng làm Tư Lệ Hiệu úy cử ra biên ải đánh dẹp. Sức khỏe và mưu trí của Lý Ông Trọng đã khiến quân Hung Nô vô cùng hoảng sợ, không dám quấy nhiễu. Từ đấy, một dải biên cương phía bắc nước Tần được yên ổn.

Chàng được vua Tần trọng dụng, phong làm Vạn Tín hầu, ban cho nhiều của cải, lại còn gả con gái yêu cho chàng. Nhưng dù sống cảnh giàu sang, Lý Ông Trọng vẫn canh cánh bên lòng nỗi nhớ quê hương. Nhiều đêm thao thức, chàng nhớ da diết từng giọng nói, điệu hò, từng cuộc đấu vật đua thuyền sôi động trong các buổi hội làng, từng miếng trầu cay thơm mà các cô gái trao cho chàng thay lời hò hẹn… Ôi, đất khách quê người, phương trời biền biệt… Chưa bao giờ chàng thấy yêu quê hương xứ sở của mình đến thế.

Cuối cùng, không chịu đựng nổi nữa, chàng kiếm cớ xin phép vua Tần về thăm quê. Thoạt đầu vua Tần không đồng ý, sợ quân Hung Nô trở lại. Nhưng sau cho rằng Lý Ông Trọng không thể dứt bỏ cuộc sống giàu sang trên đất Tần và sẽ nhanh chóng quay lại, vua Tần cũng vui vẻ chấp thuận.

Chỉ chờ có thế, Lý Ông Trọng vội vã khăn gói lên đường.

Giây phút gặp lại bà con thân thuộc nơi làng xưa xóm cũ khiến Ông Trọng vô cùng cảm động. Bến sông xưa kia rồi, nơi chàng đã giết thuồng luồng tế mẹ năm nào. Mồ cha mẹ chàng nằm chơ vơ trên một ngọn đồi cạnh làng, đã bao năm qua chàng chẳng hề được quỳ để thắp một nén nhang tưởng niệm. Không, chàng sẽ không bao giờ rời xa chốn này nữa. Chàng nói:

– Thà sống khổ cực nơi quê nhà còn hơn được làm quan sung sướng nơi đất Tần.

Từ khi biết Lý Ông Trọng trở về quê hương, quân Hung Nô lại tràn sang quấy phá miền biên giới nước Tần. Vua Tần đã phải cử nhiều tướng giỏi, nhiều đội quân thiện chiến ra trận, nhưng vẫn không sao đánh dẹp được. Cuối cùng, vua Tần phải cho sứ cấp tốc sang Âu Lạc triệu gấp Lý Ông Trọng về.

Nhưng Lý Ông Trọng nhất quyết không chịu sang đất Tần nữa. Mặc cho sứ giả hết hứa hẹn lại dọa nạt cũng không lay chuyển được. Nghe tin báo vua Tần nổi giận, cho sứ đem tối hậu thư sang hạn rõ: Nếu Ông Trọng không sang ngay đất Tần, vua Tần sẽ cử đại binh đi chinh phạt Âu Lạc.

Không biết giải quyết cách nào, An Dương Vương đành nói dối là Ông Trọng đã chết.

Vua Tần không tin, đòi An Dương Vương cho người đem hài cốt sang để xem rõ thực hư. Trước hoàn cảnh khó khăn của triều đình Âu Lạc và nguy cơ đất nước rơi vào cảnh binh lửa, Lý Ông Trọng đã đâm cổ tự vẫn để giữ vẹn tấm lòng gắn bó với quê hương.

Nhận được hài cốt của Lý Ông Trọng, vua Tần vô cùng thương tiếc. Vừa cảm mến chàng, vừa để đối phó với quân Hung Nô, vua Tần cho đúc tượng Lý Ông Trọng bằng đồng. Cả hàng chục lò đúc đồng rực sáng, hàng ngàn thợ hối hả làm việc đêm ngày.

Tượng đúc xong to cao, giống hệt Lý Ông Trọng. Bên trong tượng rỗng, lắp đặt máy móc để có thể cử động được. Vua Tần cho đặt tượng trước cửa ải Hàm Dương nơi biên thùy đối diện với nước Hung Nô. Lại cho người thay phiên chui vào trong điều khiển máy móc để tay chân cử động như người sống thật.

Quân Hung nô từ xa trông thấy tượng Lý Ông Trọng đang cử động giữa đám binh lính Tần vây kín trong ngoài, tưởng Lý Ông Trọng còn sống thật nên rất hoảng sợ. Tin đồn lan truyền khiến đội quân Hung Nô trở nên rối loạn, xô nhau bỏ chạy tan tác. Vua Hung Nô được tin Lý Ông Trọng trở về cầm quân vội vàng xin thần phục vua Tần. Nước Tần từ đó mới yên ổn nạn đao binh…

MỊ CHÂU – TRỌNG THỦY

Dù đã làm vua nước Nam Việt rộng lớn gồm có ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận, Triệu Đà vẫn chưa vừa lòng. Không thể bành trướng tham vọng của mình lên phía bắc vì nhà Tần vẫn còn, Triệu Đà bèn nhìn về phương nam. Ở đây, nằm kề biên giới là nước Âu Lạc với nhiều sừng tê, ngà voi, ngọc trai, trống đồng; xóm làng xanh mướt với nhiều cây trái ngọt lành. Bởi vậy Âu Lạc trở thành miếng mồi ngon, thúc giục lòng tham muốn của Triệu Đà.

Nhân cơ hội tình hình nước Tần rối loạn, suy yếu, vì vậy rảnh được mối lo phương bắc, Triệu Đà dồn lực lượng kéo xuống đánh Âu Lạc (vào khoảng đầu năm 209 trước Công nguyên). Quân Triệu Đà trùng trùng điệp điệp kéo đến núi Tiên Du thuộc Bắc Giang (Hà Bắc) thì dừng lại để dàn trận. Quân trinh sát được tung ra đi dọ thám. Chúng đóng giả làm những người buôn bán hòng lẻn vào kinh đô.

Nhưng bức tường thành Cổ Loa đã chắn bước chúng. Những tên gan lỳ nhất cũng chỉ lẻn được vào trong vòng thành Ngoài bằng cách lẫn vào quân lính. Trên cao là những vọng canh sừng sững, dưới hào thuyền đi tuần suốt ngày đêm, quân ngũ ngăn nắp tề chỉnh. Tất cả mọi sự thấy được làm bọn mật thám khiếp vía, đành quay về báo lại cùng Triệu Đà.

Nghe tin quân Nam Việt kéo đến, An Dương Vương trao nỏ thần cho tướng Cao Lỗ và ra lệnh xuất quân. Khi Triệu Đà đang còn lúng túng, bộ binh và thủy quân của Âu Lạc đã ập đến. Quân Đà hoảng loạn. Tướng Cao Lỗ ngồi trên bành voi, giương cao chiếc Nỏ Thần buông tên. Sau nhiều tiếng nổ kinh hồn, quân địch lăn ra chết như rạ ngoài đồng. Triệu Đà thua to, gom góp tàn quân lui về giữ núi Vũ Ninh.

Không từ bỏ mộng xâm lăng, chưa khiếp vía trước sức mạnh của Nỏ Thần và của quân Âu Lạc, Triệu Đà lại hạ lệnh về nước cho trưng mộ thêm binh lính. Lần thứ hai lâm trận, quân Triệu Đà lại thua liểng xiểng. Tiếng nổ của Nỏ Thần lại tiêu diệt hàng vạn tên giặc và đồng thời tỏ cho Triệu Đà biết là Âu Lạc có một vũ khí bí mật. Thấy thế không thắng được, Triệu Đà bèn đề nghị giảng hòa và rút quân về nước.

Hiểu rằng Âu Lạc có vũ khí bí mật, không thể chỉ bằng vũ lực mà chinh phục, Triệu Đà bèn tìm cách cho người vào Âu Lạc dò la. Được biết An Dương Vương có nàng con gái là Mỵ Châu xinh đẹp, Triệu Đà bèn sai con trai là Trọng Thủy sang Âu Lạc mượn danh nghĩa thông hiếu để kết thân. Triệu Đà còn đem của cải mua chuộc giới quý tộc Âu Lạc để họ đừng làm khó dễ Trọng Thủy. Sau nhiều lần đi sứ qua lại, Trọng Thủy gặp được Mỵ Châu và đem lòng yêu nàng.

Nàng Mỵ Châu thơ ngây cũng đáp lại tình yêu kia. Thấy mọi việc diễn ra như dự tính, Triệu Đà bèn cho người sang cầu hôn Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Nghĩ rằng kết thông gia với Triệu Đà là sẽ tránh được nạn chiến tranh, An Dương Vương hoan hỉ nhận lời. Các Lạc hầu cũng đồng thanh tán thành. Duy chỉ có tướng Cao Lỗ là phản đối, ông nói với vua:

  • Nó mượn cớ cầu hòa và cầu hôn để cướp nước ta đó thôi.

An Dương Vương không nghe lời Cao Lỗ, cho là ông cố chấp. Nhưng Cao Lỗ vẫn cương quyết can ngăn. Nổi giận An Dương Vương đuổi Cao Lỗ về quê. Trước khi lên đường, Cao Lỗ còn cố tâu với nhà vua:

  • Xin nhà vua thận trọng giữ gìn Nỏ Thần. Có được nỏ này thì làm vua thiên hạ, không giữ được nó thì mất thiên hạ.(*)

* Chữ “Thiên hạ” ở đây chỉ đất nước, quốc gia.

Nhưng An Dương Vương không quan tâm, chỉ mong Cao Lỗ đi cho khuất mắt.

Cao Lỗ đi là An Dương Vương làm lễ cưới cho đôi trẻ. Trọng Thủy dưới sự chỉ đạo của Triệu Đà, xin ở lại ở rể. An Dương Vương hân hoan chấp thuận. Nhà vua nghĩ:

  • Con trai ở đây, hẳn Triệu Đà không thể nào cất quân đi đánh ta được.

Mỵ Châu và Trọng Thủy sống bên nhau rất hạnh phúc. Mỵ Châu dẫn Trọng Thủy đi dạo khắp nơi, giảng giải cho chàng biết những điều kỳ thú của đất Âu Lạc.