Tập 10: Họ Khúc dựng nền tự chủ

Kế hiểm của Khúc Thừa Dụ, về sau, dân làng ông ai ai cũng biết: Thì ra, ông đã sai lấy những trái ớt thật cay, giã thật nhỏ, trộn chung với muối, bỏ vào một cái túi vải, và… đem túi vải có muối ớt ấy lồng vào hạ bộ trâu rồi cột chặt lại. Ông sai dắt hai con trâu chọi ra đầu đoạn đường hẹp chờ sẵn.

Đúng lúc lính giặc bắt đầu lố nhố ở giữa đoạn đường hẹp, ông hạ lệnh lấy nước sôi dội vào túi muối ớt. Trâu hoảng hốt rồi lồng lên, chạy thục mạng. Muối ớt càng thấm, trâu càng trở nên hung dữ, gặp bất cứ ai cũng húc. Giặc chưa hết hoàn hồn bởi con trâu đầu tiên thì đã bị con thứ hai lao tới. Giữa đường hẹp, chúng chỉ còn biết kêu trời mà thôi.

Bởi quá bất ngờ, cả toán đều bị thương tích nặng, có tên chết ngay tại chỗ. Khi cả hai con trâu đã chạy xa rồi, Khúc Thừa Dụ mới cho người ra khiêng đám lính bị thương về dinh quan đô hộ, lại còn vờ tỏ sự xót thương.

Khi ở Trung Quốc, việc Chu Toàn Trung giết vua Đường khiến cho xã hội Trung Quốc đương thời phải náo loạn, thì ở đất Hồng châu, Khúc Thừa Dụ cũng ngày đêm ráo riết chiêu mộ nghĩa binh để chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa. Nhờ tài cao đức dày, Khúc Thừa Dụ được khắp nơi mến mộ, theo về ngày một đông.

Chuyện thí nghịch của Chu Toàn Trung cũng trực tiếp gây nên những ảnh hưởng không nhỏ đối với bọn quan lại đô hộ ở nước ta. Cũng năm này, Độc Cô Tổn vừa sang nhận chức Tĩnh Hải Tiết độ sứ được hai tháng đã bị đày đi đảo Hải Nam và chết ở đó. Độc Cô Tổn chính là viên quan đô hộ cuối cùng của phong kiến Trung Quốc đối với nước ta thời Bắc thuộc.

Khi Độc Cô Tổn đi rồi, chức đô hộ ở nước ta bỏ trống. Bấy giờ, Chu Toàn Trung cũng đang nóng lòng tìm cách cướp ngôi của nhà Đường, do vậy hắn không thể nào can thiệp sâu hơn vào tình hình của nước ta. Nguồn tin quan trọng này đã nhanh chóng truyền đến Khúc Thừa Dụ và các nghĩa sĩ của ông.

Nhiều người khuyên Khúc Thừa Dụ nên thừa cơ mà dấy nghĩa, đem quân đánh một trận sống mái với bọn đô hộ, nhưng Khúc Thừa Dụ lại nói: “Không có binh hùng và tướng mạnh thì không thể làm nên việc lớn, song lúc này chưa phải là lúc ra tay chém giết cho hả giận. Trả được tư thù mà không rửa được nhục cho nước, phỏng có ích gì?”.

Nói rồi, Khúc Thừa Dụ sai người đi khắp bốn phương gấp rút chiêu mộ thêm lực lượng và tích trữ lương thực, đồng thời, theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến trong thành Tống Bình. Thành này, nay thuộc Hà Nội, vào thời Bắc thuộc, đó là thủ phủ của bọn quan lại đô hộ. Những tên Tĩnh Hải Tiết độ sứ trước đó như Tăng Cổn, Chu Toàn Trung, Độc Cô Tổn… đều đặt trụ sở tại đấy.

Năm 905, tuy công việc chuẩn bị của Khúc Thừa Dụ chưa thật sự đầy đủ, nhưng thời cơ giành chính quyền thì đã quá chín mùi, bởi vậy, ông liền quyết định đem toàn bộ lực lượng của mình tiến vào thành Tống Bình. Bấy giờ, tất cả chính quyền đô hộ của nhà Đường ở nước ta đã hoàn toàn rệu rã, khả năng đem quân đi cứu nguy của triều đình nhà Đường cũng không còn.

Đến trước cổng thành Tống Bình, Khúc Thừa Dụ căn dặn tất cả nghĩa sĩ của mình rằng: khi đã vào thành, hễ kẻ nào dám chống cự thì quyết không tha, nhưng, tất cả những tên sớm biết quy phục thì phải tha mạng cho chúng, chớ không được phép giết bừa bãi. Không một ai được phép làm trái với mệnh lệnh này.

Bọn quan lại và quân lính nhà Đường trong thành Tống Bình hết sức bất ngờ khi Khúc Thừa Dụ xuất hiện và tự nhận mình là quan Tĩnh Hải Tiết độ sứ mới, thay cho Độc Cô Tổn, toàn quyền quyết định mọi việc. Lúc ấy, lác đác cũng có tên cả gan dám chống lại, nhưng đều bị nghĩa sĩ của Khúc Thừa Dụ thẳng tay trừng trị.

Mất thành Tống Bình, chính quyền đô hộ của nhà Đường ở các địa phương cũng lần lượt tan rã. Khúc Thừa Dụ cho phép quan quân nhà Đường được bình an trở về Trung Quốc, còn tất cả người Việt bị ép đi lính cho giặc thì cho phép trở về quê nhà sum họp với gia đình.

Tại thành Tống Bình, sau khi tự xưng là Tĩnh Hải Tiết độ sứ, Khúc Thừa Dụ nhanh chóng cắt đặt quan lại nắm giữ những chức vụ chủ chốt. Toàn bộ hệ thống chính quyền ở khắp các địa phương cũng lần lượt được thay đổi. Một cơ đồ độc lập và tự chủ bắt đầu được xây dựng kể từ đây.

Bấy giờ, cũng có người khuyên Khúc Thừa Dụ nên nhân đã thắng lợi, lên ngôi chí tôn, đặt quốc hiệu và niên hiệu, rửa mối nhục ngàn năm mất nước, nhưng Khúc Thừa Dụ nhất quyết chối từ. Ông nói: Điều cốt yếu là giành và giữ cho được cơ đồ của tổ tiên. Chính danh phận mà rốt cục lại gây nguy hại cho điều cốt yếu kia thì phỏng có ích gì.

Trước việc đã rồi, tháng giêng năm Bính Dần (906), nhà Đường buộc phải phong cho Khúc Thừa Dụ chức Tĩnh Hải Tiết độ sứ, Đồng bình Chương sự. Tĩnh Hải Tiết độ sứ là chức quan đô hộ cao nhất ở nước ta, còn Đồng bình Chương sự là cụm từ chỉ quyền hành lớn, được phép thay mặt triều đình quyết đoán các việc lớn nhỏ.

Như vậy là, tuy chưa đặt quốc hiệu hay niên hiệu, tuy chưa xưng đế hay xưng vương, thậm chí là trên danh nghĩa, Khúc Thừa Dụ còn tự coi mình như một quan lại của nhà Đường, nhưng về thực chất, Khúc Thừa Dụ là người đã có công đặt nền tảng căn bản đầu tiên cho kỷ nguyên độc lập và tự chủ của nước nhà.

Từ khi lên nắm quyền, Khúc Thừa Dụ đã liên tiếp ban hành nhiều chính sách tích cực và tiến bộ, vừa được lòng dân trong nước, lại cũng vừa tránh được sự hậm hực của bọn phong kiến Trung Quốc. Nhiều bộ sử cũ đã chép rằng, Khúc Thừa Dụ là người khoan dung, thương người, được dân chúng suy tôn.

Tháng 6 năm Đinh Mão (907), Khúc Thừa Dụ qua đời, con ông là Khúc Hạo lên nối nghiệp. Khúc Hạo là người kế thừa xuất sắc sự nghiệp của cha mình và cũng được dân chúng kính trọng.

Cũng vào năm Khúc Hạo nắm quyền (907) thì ở Trung Quốc, Chu Toàn Trung ép vua Đường nhường ngôi cho mình và lập ra nhà Hậu Lương. Nhà Đường đến đó là dứt!

Từ đây Trung Quốc bắt đầu bước vào thời kỳ loạn lạc kéo dài hơn nửa thế kỷ. Sử gọi đó là thời Ngũ đại thập quốc (năm đời, mười nước). Năm đời nối nhau là: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu.

Đất nước Trung Quốc bị phân chia thành mười nước nhỏ. Các nước này đem quân đánh lẫn nhau để tranh giành quyền lợi. Vì vậy chiến tranh xảy ra liên miên, không một ngày nào dứt.

Triều đại tuy có khác, nhưng do phải đối phó với quá nhiều sự rối ren trong nước, chính sách của phong kiến phương Bắc đối với nước ta cũng không có gì đổi thay.

Tháng 7 năm 907, nhà Hậu Lương sai sứ giả sang phong cho Khúc Hạo làm Tĩnh Hải Tiết độ sứ. Với sự kiện này, có thể nói rằng: nhà Hậu Lương chẳng những phải thừa nhận quyền tự chủ của nhân dân ta mà còn phải thừa nhận cả quyền thế tập của họ Khúc. Chúng tỏ ra bất lực trước mọi diễn biến chính trị trên đất nước ta.

Tuy sức tàn, bọn phong kiến Trung Quốc vẫn nuôi hy vọng đặt lại nền đô hộ của chúng. Bởi vậy, nhà Hậu Lương vừa phong cho Khúc Hạo làm Tĩnh Hải Tiết độ sứ, Đồng bình Chương sự, lại vừa phong cho quan Quảng Đông Tiết độ sứ của chúng là Lưu Ẩn kiêm giữ cả chức này!

Nhà Hậu Lương vừa muốn dọn đường cho cuộc xâm lăng trong tương lai, vừa muốn dụ dỗ và vỗ về Lưu Ẩn, nhưng, cả hai mưu toan này đều không thành công. Lưu Ẩn cũng là kẻ giàu tham vọng. Hắn đã biến vùng Quảng Đông thành một vương quốc riêng, đặt quốc hiệu là Nam Hán. Và, Nam Hán đã trở thành một trong mười nước của thời Ngũ đại thập quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Về phần mình, Khúc Hạo đã ban hành nhiều chính sách rất tiến bộ và tích cực. Về đối nội, trước hết, Khúc Hạo chủ trương cải tổ bộ máy hành chính. Vấn đề lớn nhất ở đây không phải là thay tay chân của bọn phong kiến Trung Quốc đô hộ bằng những người thân tín của họ Khúc mà quan trọng hơn, đó là tìm cách tăng cường năng lực quản lý của bộ máy nhà nước.

Bấy giờ, tất cả các quan hành chính từ trung ương đến tận cấp xã khắp các địa phương trong cả nước đều được sắp xếp lại. Chức sắc hàng xã tuy vẫn là chức dân cử, nhưng, họ phải gắn bó mật thiết với cấp trên và đặc biệt là phải chịu sự chi phối thường xuyên của cấp trên.

Trong đối nội, chính sách quan trọng nhất của Khúc Hạo là định ra chế độ thuế khóa và lực dịch mới, theo đó thì: “Thuế ruộng thu theo mức bình quân, lực dịch thì bãi bỏ. Ngoài ra, còn lập sổ hộ tịch để ghi rõ họ tên, quê quán từng người, giao cho các Giáp trưởng trông coi. Chính sự cốt ở khoan dung, giản dị, cho nên nhân dân đều được an vui”.

Về đối ngoại, Khúc Hạo chủ trương thần phục nhà Hậu Lương và tránh những đụng độ không cần thiết, nhưng mặt khác, vẫn tìm cách ứng xử rất mềm mỏng với nhà Nam Hán. Mục tiêu cao nhất của chính sách đối ngoại đương thời là phải bảo đảm cho bằng được nền thái bình non trẻ, tạo cơ hội để xây dựng và củng cố sức mạnh của đất nước.

Năm 911, Lưu Ẩn qua đời, em là Lưu Nghiễm lên nối ngôi. Nhân cơ hội này, Khúc Hạo cho con là Khúc Thừa Mỹ cầm đầu phái bộ sứ giả sang chia buồn và cũng để dự lễ đăng quang của Lưu Nghiễm, với mục đích thông qua đó để “kết mối hòa hiếu”. Ngoài ra, phái bộ sứ giả này còn có nhiệm vụ dò la thực lực của Nam Hán.

Giữ chức Tiết độ sứ từ năm 907 đến năm 917, Khúc Hạo chẳng những kế thừa được sự nghiệp còn dang dở của cha mà còn có thêm nhiều cống hiến lớn. Bấy giờ, trong nước thái bình, biên cương yên ở, dân cư an vui, nền độc lập và tự chủ ngày một thêm vững chắc. Năm 917, Khúc Hạo qua đời, con ông là Khúc Thừa Mỹ lên nối nghiệp.

Trải đúng mười năm bền bỉ phấn đấu, lại rất khôn khéo trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại, Khúc Hạo đã để lại cho con là Khúc Thừa Mỹ cả một sự nghiệp lớn đã được khẳng định tương đối vững chắc. Khúc Thừa Mỹ chẳng khác gì được ngồi vào mâm cỗ thịnh soạn đã dọn.

Rất tiếc rằng Khúc Thừa Mỹ chỉ là người thừa hưởng chớ không phải là người kế tục. Ông đã phạm một loạt những sai lầm nghiêm trọng khác nhau. Trong đối nội, Khúc Thừa Mỹ không tiếp tục đẩy mạnh những chính sách rất tích cực và tiến bộ do cha khởi xướng. Ông dần dần xa dân, xa lạ với cả tổ tiên của mình.

Về đối ngoại, sau khi được cử đi sứ sang Nam Hán trở về, Khúc Thừa Mỹ tỏ ra lo sợ trước sự mạnh mẽ nhanh chóng của họ Lưu. Sau đó, nghe tin Lưu Nghiễm đánh thắng mấy trận lớn ở đất Giang Đông, chiếm được nhiều vùng đất phía tây như Dung, Quế, Ung v.v… nên lại càng thêm lo sợ hơn nữa.

Việc hưng thịnh nhanh chóng của Nam Hán là điều có thật. Khi mà Nam Hán đã bành trướng mạnh mẽ sang cả phía đông lẫn phía tây thì chẳng có gì bảo đảm rằng Nam Hán sẽ không bành trướng xuống phương nam. Nguy cơ bị Nam Hán xâm lăng ngày một lộ rõ. Nhưng, rất tiếc là Khúc Thừa Mỹ đã không để ra được một biện pháp đối phó nào đúng đắn cả.