Tập 12: Cờ lau Vạn Thắng Vương

Một hôm, nhân lúc Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn uống rượu say nằm trong cung, Đỗ Thích lẻn vào và giết cả hai người. Việc bị phát giác, Đinh Điền, Nguyễn Bặc cho quân vây chặt cung điện, lục soát tìm bắt kẻ sát nhân.

Đỗ Thích không đường thoát thân, trèo lên nóc cung điện, trốn vào máng nước. Quan quân tìm khắp nơi không thấy, mãi ba ngày sau mới phát hiện được. Hắn bị Nguyễn Bặc cho bắt xuống băm ra từng mảnh và bị mọi người dân Hoa Lư nguyền rủa cho hả nỗi căm hận.

Đình thần tôn Vệ vương Đinh Toàn (Có sách ghi là Đinh Tuệ) mới sáu tuổi lên ngôi. Mẹ của Đinh Toàn là Dương Vân Nga được tôn làm Hoàng thái hậu. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn được giao quyền nhiếp chính (trông coi mọi việc thay vua).

Lê Hoàn tự do ra vào cung cấm. Thấy thế các đại thần như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp lo sợ Lê Hoàn cướp ngôi nên đem quân đánh. Nhưng tất cả đều bị Lê Hoàn đánh bại.

Lại nói Ngô Nhật Khánh trước đã bỏ nhà Đinh trốn sang Chiêm Thành. Lúc này, thấy triều Đinh đang lục đục, Ngô Nhật Khánh xui vua Chiêm Thành đem quân sang đánh nước Đại Cồ Việt.

Chiêm Thành (còn gọi là Chăm-pa) là một nước nằm ở phía Nam nước Đại Cồ Việt.

Từ lâu, vùng duyên hải thuộc Trung bộ này là địa bàn sinh sống của những người thuộc nhóm tộc Mã Lai – Đa đảo. Họ họp thành hai bộ lạc: bộ lạc Cau (vùng từ Phú Yên đến Phan Thiết) và bộ lạc Dừa (vùng từ Quảng Nam đến Bình Định).

Vào khoảng đầu công nguyên, bộ lạc Cau lớn mạnh lên và thành lập một tiểu quốc có tên là Panduranga. Lúc đó, bộ lạc Dừa cũng còn phải sống dưới sự đô hộ của nhà Hán (giống như dân tộc ta). Vùng đất của họ bị nhà Hán đặt thành huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam.

Cuối thế kỷ thứ II, nhân dân bộ lạc Dừa nổi lên dưới sự lãnh đạo của Khu Liên, giành được quyền độc lập, tự chủ, lập nên nước Lâm Ấp. Đến giữa thế kỷ thứ IV, nước Chiêm Thành được lập do sự thống nhất của Lâm Ấp và Panduranga.

Vương triều đầu tiên Gangaraja đóng đô tại Sinhapura (có nghĩa là “Thành phố Sư tử”, tức Trà Kiệu, ở tỉnh Quảng Nam ngày nay), xây dựng nhiều đền thờ ở Mỹ Sơn (cách kinh đô Sinhapura khoảng 20km).

Đất nước Chiêm Thành có những đồng bằng duyên hải phì nhiêu, sản xuất nhiều loại nông sản, đặc biệt là cau, dừa. Rừng có nhiều sản vật quí, đặc biệt nhất là trầm hương. Người Chiêm cần cù, thợ thủ công khéo léo trong các nghề nuôi tằm, dệt tơ lụa, rèn đúc, làm gạch, xây dựng. Vì thế Chiêm Thành đã nhanh chóng cường thịnh.

Giữa thế kỷ thứ VIII, vương triều Panduranga thay thế vương triều Gangaraja, chọn Virapura (ở Phan Rang) làm kinh đô và cho xây cất đền thờ ở Kauthara (Nha Trang ngày nay). Một thế kỷ sau vương triều Indrapura lên thay và dời đô về Đồng Dương (cách Trà Kiệu khoảng 15km). Trong các thế kỷ này, Chiêm Thành nhiều lần đem quân đánh vào phủ An Nam (lúc đó bị nhà Đường đô hộ).

Từ thế kỷ X, nước Chiêm Thành gặp nhiều khó khăn do chia rẽ, xung đột giữa các quí tộc ở các địa phương. Thêm vào đó, những chi phí nặng nề cho việc xây dựng kinh đô và đền thờ trong nhiều lần dời đô liên tiếp đã làm suy kiệt sức dân.

Lúc này ở phía bắc Chiêm Thành, người Việt đã giành được độc lập ở phía nam, nước Chân Lạp đã thống nhất.

Khoảng năm 945, Chân Lạp đem quân đánh phá miền nam Chiêm Thành, cướp đi tượng thần bằng vàng ở đền Po Naga (Tháp Bà Nha Trang).

Năm 972 (lúc đó ở nước ta là triều vua Đinh Tiên Hoàng), Phê Mị Thuế, vị vua thứ chín của triều Indrapura lên ngôi. Phê Mị Thuế (*) nghe lời xúi giục của Ngô Nhật Khánh sai quân sang đánh Đại Cồ Việt. Nhưng thuyền của quân Chiêm Thành đến cửa Đại Ác và cửa Tiểu Khang (nay thuộc Ninh Bình) thì bị bão đắm gần hết.

(*): tên Chăm là Paramesvaravarman.

Mối đe dọa từ phương nam vừa qua thì mối đe dọa lớn hơn từ phương bắc lại ập tới.

Ở Trung Quốc, nhà Tống tập trung lực lượng đánh các nước nhỏ đang cát cứ ở miền nam. Năm 979, nhà Tống đã thống nhất được Trung Quốc và đang nuôi tham vọng chiếm lấy Đại Cồ Việt.

Hầu Nhân Bảo thấy tình hình nước ta bất ổn đã tâu lên vua Tống: “An Nam quận vương (muốn nói Đinh Tiên Hoàng) và con là Liễn đều bị giết, nước đã gần mất, có thể nhân lúc này đem quân địa phương đánh lấy được”. Vua Tống liền sai Hầu Nhân Bảo cùng Tôn Toàn Hưng lo chuẩn bị binh mã.

Tin quân Tống sắp kéo sang được cấp báo về triều đình Hoa Lư. Dương Thái hậu giao cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lo việc chống ngăn quân giặc. Lê Hoàn cử Phạm Cự Lượng(*) (em của Phạm Hạp) làm Đại tướng để cùng chuẩn bị cuộc kháng chiến.

(*) Có sách gọi là Phạm Cự Lạng.

Phạm Cự Lượng bảo với tướng sĩ: “Thưởng người có công, phạt kẻ không vâng lệnh, đó là phép hành binh. Bây giờ chúa thượng hãy còn thơ ấu, bọn ta dẫu hết sức liều chết, may mà có chút công lao thì ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn ngay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm thiên tử, sau sẽ ra quân”.

Tướng sĩ tán đồng và theo Phạm Cự Lượng kéo vào cung.

Trước ý muốn của ba quân tướng sĩ và thấy vận nước đang lúc nguy nan cần phải có người tài giỏi đảm đương gánh vác, Dương Thái hậu bèn lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn và cùng triều thần tôn ông lên ngai vàng. Đó là khởi đầu của triều Lê mà sử nước ta thường gọi là thời Tiền Lê để phân biệt với thời Hậu Lê (Lê Lợi) sau này.

Nhà Đinh chấm dứt với hai triều vua, trị vì trong 14 năm.

Tượng Vua Đinh (Hoa Lư, Ninh Bình) Ảnh: Đức Hòa
Tượng Đinh Liễn – Ảnh: Đức Hòa
Tượng Hạng Lang và Đinh Toàn – Ảnh: Đức Hòa
Thung Lau ngày nay – Ảnh: Bảo tàng đền vua Đinh
Cờ lau tập trận. Tranh dân gian Đông Hồ
Quê hương và căn cứ ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh

Đàn trâu trên cánh đồng Hoa Lư ngày nay

Khúc sông trước đền Vua Đinh ngày nay mọc đầy lau sậy.
Ảnh: Đức Hòa

Một cảnh quan điển hình ở Hoa Lư: ruộng lúa (lúa ngoi) ven sông, không có đê – Ảnh: Đức Hòa
Những thuyền nan nhỏ bé nhưng phổ biến ở vùng Hoa Lư Ảnh: Đức Hòa

Địa thế hiểm trở với các vách núi dựng đứng đã gợi ý cho quyết định đóng đô của Đinh Tiên Hoàng – Ảnh: Đức Hòa

Bến sông Hoàng Long ngày nay – Ảnh Sách Đô thị cổ Việt Nam

Cổng đền vua Đinh ở Hoa Lư – Ảnh: Đức Hòa

Đường vào chính điện đền Đinh ở Hoa Lư – Ảnh: Du lịch Ninh Bình

Khách tham quan sập rồng bằng đá ở sân chính điện Ảnh: Đức Hòa

Núi Cột Cờ (Hoa Lư) Ảnh: Bảo tàng đền Vua Đinh

Núi Chùa Non Nước nơi vua Đinh chọn đóng tiền đồn án ngữ Hoa Lư từ xa – Ảnh: Đức Hòa

Ghềnh Tháp nơi Vua Đinh duyệt thủy quân hàng năm
Ảnh: Bảo tàng đền vua Đinh

Am Tiên nơi Vua Đinh nhốt thú dữ xử tội nhân Ảnh: Bảo tàng đền vua Đinh

Cột Kinh Phật do Đinh Liễn sai người làm từ 973 đến 979, khai quật tháng 12-1986 ở ven sông Hoàng Long Ảnh: Bảo tàng Ninh Bình Vịt đất nung TK 10
Ảnh: Bảo tàng Ninh Bình

Một đoạn Kinh Phật được chạm trên cột Kinh Đinh Liễn Ảnh: Sách Chùa Việt Nam của NXB Khoa học Xã hội

Phủ Bà Chúa – Phủ đệ của công chúa Phất Kim, con vua Đinh
Ảnh: Bảo tàng đền Vua Đinh

Lăng vua Đinh trên núi Mã Yên – Hoa Lư
Ảnh: Đức Hòa

Tu sửa nhà bia đền Đinh năm 1996
Ảnh: Đức Hòa

Tài liệu tham khảo

Đại Việt sử ký toàn thư, tập I (bản dịch của Ngô Đức Thọ), Hà Nội, 1993.

  • Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Nguyễn Danh Phiệt, Hà Nội, 1990.
  • Thế kỷ X – Những vấn đề lịch sử, Nhiều tác giả, Hà Nội, 1984.
  • Lịch sử Việt Nam, Tập I, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội, 1971.
  • Lịch sử Việt Nam (thế kỷ VII – 1427) q.1, t.2, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh, Hà Nội, 1976.
  • Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 189, 256.

LịCH Sử VIỆT NAM BằNG TRANH TậP 12

CỜ LAU VẠN THẮNG VƯƠNG

Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN MINH NHỰT

Chịu trách nhiệm nội dung: NGUYỄN THẾ TRUậT

Biên tập: CÚC HƯƠNG

Biên tập tái bản: TÚ UYÊN

Bìa: BIÊN THÙY

Sửa bản in: ĐìNH QUâN

Trình bày: BÙI NGHĩA