Tập 14: Thăng Long buổi đầu
Đến năm 1013, thấy đời sống dân chúng đã ổn định, nhà vua mới ban hành chính sách thuế khóa mới. Có tất cả 6 dạng thuế:
- Đầm, ao, ruộng.
- Đất trồng dâu và bãi phù sa.
- Sản vật trên núi và cao nguyên.
- Mắm muối buôn bán với các nước.
- Trầm hương, sừng tê, ngà voi.
- Tre, gỗ ở rừng.
Nhưng sau đó, khi ngân khố đã dồi dào, nhà vua lại cho miễn thuế thêm ba năm nữa. Ngoài ra, nhà vua còn cấp cho chùa Hưng Thiên 310 lạng vàng để đúc chuông, hoặc trích 800 lạng bạc trong kho để đúc chuông treo ở lầu Ngũ Phụng.
Cố đô Hoa Lư lúc này được đổi thành phủ Trường Yên. Làng Cổ Pháp, quê hương của nhà vua, trở thành phủ Thiên Đức và được vua ưu đãi. Vua ban tặng cho làng hai vạn quan để thuê thợ xây dựng 8 ngôi chùa và lập bia ghi lại công đức.
Cả nước được chia làm 24 lộ, phủ rồi đến huyện và sau hết là hương, giáp. Miền núi thì gọi là châu, miền xa như Hoan châu (Nghệ An) và Ái châu (Thanh Hóa) thì gọi là trại. Các hương làng được tự quản lý, tự bầu lấy người đứng đầu, nhưng có bổn phận đóng thuế, cung cấp binh lính đầy đủ cho triều đình.
Vua đứng đầu triều đình. Theo gương các triều vua trước, Lý Thái Tổ nắm mọi quyền hành và trực tiếp giải quyết mọi việc, từ hành chính đến quân sự, cả quan chế, luật lệ, ngoại giao và tư pháp… Nhưng về sau, nhận thấy cách làm ấy không hiệu quả, nhà vua bèn giao bớt việc cho các quan, chỉ giữ quyền quyết định chung. Giúp vua bàn việc nước có các đại thần, bên dưới là các quan văn võ chia làm chín bậc.
Những người có nhiều công lao được phong tước công hầu. Sư Vạn Hạnh được phong làm Quốc sư. Đào Cam Mộc được phong làm Nghĩa Tín hầu và được vua Lý Thái Tổ đem công chúa An Quốc gả cho. Tầng lớp quý tộc là những người trong họ với vua và các công thần. Tầng lớp này nắm giữ các chức vụ chủ yếu trong triều đình cũng như ở tại các địa phương.
Các hoàng tử được nhà vua phong tước vương và đều có bổn phận đi đánh dẹp các cuộc nổi loạn nên ai cũng giỏi việc quân. Riêng thái tử nối ngôi là Lý Phật Mã thì phải ở ngoài thành, gần gũi và hiểu rõ dân chúng, để sau này cai trị cho hợp với lòng người. Mười ba nàng công chúa con vua cũng không được ở không, nhàn rỗi. Họ được phân công trông coi việc trưng thu các thứ thuế.
Vua Lý Thái Tổ coi trọng nghề nông. Hàng năm, nhà vua đều cử hành lễ Tịch Điền, tức là lễ vua cày một đường cày đầu tiên trong năm. Lễ này được hình thành từ thời vua Lê Đại Hành, để chứng tỏ sự quan tâm của triều đình, đồng thời cũng khuyến khích nông nghiệp.
Nhà vua ban hành nhiều chính sách thúc đẩy việc trồng lúa. Quân lính được luân phiên về làm ruộng. Đó là chính sách “Ngụ binh ư nông”, có nghĩa là gửi quân lính ở nhà nông. Chính sách này vừa đảm bảo được quân số cần thiết mỗi khi có chiến tranh, vừa tận dụng được sức người để tăng gia sản xuất, đảm bảo lương thực trong nước.
Những người trước đây bị ức hiếp, hoặc nợ nần quá nhiều phải bán vợ, đợ con, bỏ xứ mà đi; cũng có trường hợp phạm pháp phải phiêu bạt, trốn tránh… nay đều được kêu gọi trở về làng cũ. Tất cả đều được tha thứ, xóa nợ và nhất là được nhận ruộng để cày cấy, ổn định lại cuộc sống.
Lý Thái Tổ cũng rất chú trọng đến việc bảo vệ sức kéo trong nông nghiệp. Vua ban chiếu cấm dân chúng không được tự do mổ trâu bò ăn thịt và quy định cứ ba nhà hợp thành một nhóm gọi là “bảo” để kiểm soát lẫn nhau, cùng nhau chịu trách nhiệm bảo vệ trâu bò. Ai trộm trâu sẽ bị trừng phạt thích đáng. Nhờ biện pháp tích cực ấy, thu hoạch mùa màng ngày càng tăng, đất đai trồng trọt ngày càng mở rộng.
Phần lớn ruộng đất ở nông thôn là ruộng đất công của làng xã. Ruộng đất của làng xã nào thì do làng xã ấy quản lý. Người nông dân sống trong trật tự của làng xã. Họ tự bầu lấy người đứng đầu. Các người già được kính trọng và được mọi người nghe theo. Dân làng sống trong cảnh đùm bọc, tương thân tương ái. Ai có việc tang, việc hỉ đều được cả làng quan tâm giúp đỡ.
Hàng năm, theo tục lệ, các đinh nam (từ 18 đến 60 tuổi) họp làng bàn bạc mọi việc và phân chia ruộng đất công để cày cấy. Họ phải nộp thuế, làm lao dịch và đi lính cho nhà vua. Mức thuế được định là 100 thăng mỗi mẫu. Một số nông dân nghèo phải cày ruộng nộp tô. Hầu như làng nào cũng có chùa riêng (đất vua, chùa làng). Con em các nhà khá giả cũng phải đi lính, đi phu. Nông dân nghèo có thể rời làng để đi khai hoang lập nghiệp ở các vùng ven biển, ven sông.
Để tăng diện tích canh tác, vua Lý Thái Tổ khuyến khích việc khai khẩn đất hoang. Một số quan lại cao cấp đứng ra khai hoang và dần dần sở hữu nhiều ruộng đất, trở thành địa chủ. Nhà nước có ruộng riêng gọi là ruộng quốc khố. Lao động cày ruộng quốc khố là phạm nhân hoặc tù binh. Tô thuế ruộng quốc khố rất nặng so với các loại ruộng khác.
Giao thông thủy bộ đều được phát triển. Năm 1013, thấy đường biển đi lại khó khăn nguy hiểm, vua Lý Thái Tổ cho đào vét các con kênh, nối liền sông Cái (sông Hồng) cho đến Hoan châu (Nghệ An). Nhờ thế dân chúng, thương nhân có thể theo đường thủy đi đến tận biên giới phía bắc hoặc về phía nam rất thuận lợi.
Dọc các đường bộ quan trọng đều có nhà trạm và các ụ đất cắm biển gỗ ở trên để chỉ phương hướng cho người đi đường (giống như cột cây số của chúng ta hiện nay). Giao thông phát triển thúc đẩy thương mại lên theo. Chợ họp suốt các trục đường bộ cũng như đường thủy, nối với Thăng Long làm cho sinh hoạt trao đổi càng nhộn nhịp.
Để việc trao đổi hàng hóa được dễ dàng, vua Lý Thái Tổ cho đúc tiền rồi lấy niên hiệu Thuận Thiên của mình đặt tên cho loại tiền này. Đó là tiền Thuận Thiên đại bảo. Đồng tiền này có hình dáng tròn nhỏ, đường kính chỉ nhích hơn 2cm. Phía bề mặt có khắc chữ “Thuận Thiên đại bảo”, phía lưng để trơn. Có lỗ hình vuông ở giữa để có thể xâu lại.
“ Thiềunận thiên đại bảo”
được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Ảnh: Đức Hòa
Thủ công nghiệp cũng phát triển. Nghề dệt đã sản xuất nhiều loại sản phẩm từ gấm, đoạn, lụa cho đến vải sợi, người trong nước rất ưa dùng. Ngói gạch cũng đủ kiểu, đủ cỡ như ngói tráng men, ngói sứ trắng, gạch cỡ lớn có trang trí hoa văn và có khắc niên hiệu nhà Lý để phục vụ cho việc xây dựng nhà cửa, lâu đài, cung điện. Đồ dùng bằng sành sứ được chế tạo tinh xảo với các lớp men nâu, men ngọc, men trắng ngà cùng những hoa văn trang nhã, khắc chìm nổi rất công phu.
Quân đội gồm hai bộ phận là quân cấm vệ và quân của các lộ. Quân cấm vệ ở kinh đô có nhiệm vụ bảo vệ nhà vua và kinh thành. Đội quân này rất tinh nhuệ và có kỷ luật cao. Chỉ những chàng trai khỏe mạnh, can cường mới được sung vào hàng ngũ này. Họ đều xăm vào ngực, vào chân những dấu hiệu riêng. Quân các lộ là quân ở địa phương, có nhiệm vụ bảo vệ các châu, lộ, phủ, trại…
Việc tuyển lính tiến hành khá chặt chẽ. Thanh niên và đàn ông được chia thành từng hạng, từ 18 đến 20 tuổi là hoàng nam, từ 20 đến 60 tuổi là đại hoàng nam. Đó là các dân đinh có nghĩa vụ quân sự. Nhà nước căn cứ vào sổ đinh của từng làng xã để kêu lính. Khi có chiến tranh thì họ ra chiến trường, khi thời bình, họ luân phiên nhau về làm ruộng.
Lúc đó trong nước có vài nơi nổi loạn, nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp. Như cuộc loạn ở Diễn châu (Nghệ An), vua đi tiễu trừ được, nhưng cảnh máu chảy đầu rơi khiến ngài thấy đau lòng. Trên đường thắng trận kéo quân trở về, qua vũng Biện (cửa Biện Sơn, Thanh Hóa) bỗng nhiên đoàn thuyền của nhà vua gặp mưa to, sóng lớn vô cùng nguy hiểm.
Nghĩ rằng Trời Phật trừng phạt mình, vua bèn khấn:
“Tôi là kẻ không có đức, không dám cậy có quân mạnh, chỉ vì Diễn châu không theo giáo hóa, không thể không đánh được. Đến lúc giao chiến, kẻ hay kẻ dở đều chết cả. Tôi dẫu bị quở phạt, chết cũng không dám oán trách. Chỉ có quân sĩ không có tội tình gì, xin Thượng đế rộng lòng tha thứ”. Quân sĩ nghe vua khấn hết sức cảm động, ai nấy ra sức chèo chống, vượt qua được cơn bão dữ.
Vua Lý Thái Tổ tôn sùng Phật giáo và trọng đãi người đi tu. Dù đã lên làm vua rồi, ngài vẫn hay đi thăm viếng các chùa, nhất là chùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng (ngoại thành Hà Nội). Ngài thường đối đáp văn thơ với sư trụ trì Đa Bảo và được đáp lại bằng câu thơ còn lưu truyền đến nay:
Đức sánh ngang trời đất Uy làm bặt bốn phương Hang sâu nhuần mưa móc Ơn thấm đến thần vương.
Muốn khuếch trương Phật giáo, nhà vua cấp phát hàng vạn quan và cho xây nhiều chùa ở Thăng Long. Đặc biệt có chùa Chân Giáo ở ngay trong hoàng cung để vua dễ dàng đến tụng kinh hằng ngày. Khắp nơi chùa chiền mọc lên. Không năm nào mà không xây chùa, đúc chuông, đúc tượng mới. Quan lại, quý tộc thi nhau cúng tiền bạc, ruộng đất cho nhà chùa.
Năm 1018, vua Lý Thái Tổ sai các quan Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang Trung Hoa thỉnh kinh Tam Tạng. Bộ kinh này do nhà sư nổi tiếng đời Đường là Huyền Trang đem về từ Ấn Độ. Nhà sư Huyền Trang sau này đã được Ngô Thừa Ân huyền thoại hóa qua nhân vật Đường Tăng trong bộ truyện Tây Du Ký nổi tiếng.
Bộ kinh Tam Tạng ghi lại những lời dạy của đức Phật, gồm có ba pho. Pho thứ nhất gọi là Kinh chép lại các bài thuyết pháp của Phật. Pho thứ hai là Luật là các kỷ luật và nghi lễ mà các tăng sư phải theo. Pho thứ ba là Luận ghi lại những điểm tranh luận, bàn cãi. Nhà vua cho xây kho Đại Hưng để cất kinh gọi là nhà tàng kinh.
Hệ thống tăng già (tức là hàng ngũ các thiền sư giúp việc cho nhà vua) có từ các đời trước, nay vẫn được duy trì và ưu đãi. Các nhà sư có lễ phục riêng. Họ được cấp bằng, được miễn lao dịch và miễn đi lính. Ở Thăng Long có đến hàng ngàn nhà sư được cấp bằng. Sử sách chép lại là vào thời ấy nhân dân quá nửa làm sư. Chùa còn là nơi hội họp, vui chơi của nhân dân mỗi khi có lễ hội.
Sư Vạn Hạnh đứng đầu hàng ngũ Tăng già, tiếp tục giúp vua Lý Thái Tổ trị nước và có nhiều công lao đối với nhà Lý. Vì vậy, tám năm sau, khi ông mất (1018), nhà vua và triều thần vô cùng thương tiếc. Vua thân hành đến viếng và lập đàn làm lễ siêu độ.
Sư Vạn Hạnh không những là vị chân tu mà còn là nhà thơ, đã để lại cho hậu thế nhiều vần thơ thâm thúy, trong đó có bài: “Bảo các đồ đệ”(*) :
Thân như bóng chết, có rồi không Cây cối xuân tươi, thu não nùng Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
(Bản dịch từ chữ Hán của Ngô Tất Tố)
* Bài thơ có ý nghĩa rằng: Đời người như chiếc bóng, khi thịnh, khi suy, cũng như sương trên ngọn cỏ, có rồi lại tiêu tan ngay.
Dưới thời Lý Thái Tổ, các sinh hoạt văn nghệ được coi trọng. Mười năm sau khi cầm quyền, nhà vua đặt ra chức quan giáp để trông coi đội ngũ hát múa. Bấy giờ có một ca nữ tên là Đào, ca hay, múa giỏi rất nổi tiếng, thường được vời vào trình diễn cho vua và triều đình xem. Những khi hài lòng, vua đều thưởng tiền cho người con gái tài hoa ấy. Lần lần thiên hạ mộ danh tiếng của cô, nên từ đó các ca nữ được gọi là Đào nương.