Tập 14: Thăng Long buổi đầu

Dân chúng cũng thích ca hát, nhảy múa. Hát chèo, múa rối nước phát triển. Dàn nhạc có trống, đàn, sáo, nhị. Những màn vũ nữ dâng hoa hay vũ công vừa múa vừa đánh trống, thổi sáo, gẩy đàn rất được mọi người tán thưởng. Dân chúng còn ham chuộng các môn thể thao như đánh phết, đá cầu, đấu vật, đua thuyền.

Vào những ngày hội lớn, Thăng Long và các nơi thường tổ chức những trò vui chơi như đua thuyền, múa rối, đánh đu, tung còn, đấu vật, thi nấu cơm. Hội Dâu ở làng Khương Tự (Thuận Thành, Bắc Ninh) ngoài trò cờ tướng, đấu vật, kéo co còn làm lễ cầu mưa cho mùa màng được tươi tốt. Hội Gióng ở Sóc Sơn (phía bắc Hà Nội) thì có chọi gà, đánh đu, cướp lộc hoa tre…

Đấy cũng là dịp cho thanh niên nam nữ gặp gỡ, tìm hiểu nhau để tiến tới hôn nhân. Các chàng trai khoe sức mạnh qua những trận đấu vật, kéo co; các cô gái khoe tài nấu cơm. Họ cùng nhau chơi trò “tung còn tìm bạn tình”, hoặc vừa ướm ý mở lời vừa cùng nhau quay tít trên giàn đu tiên. Cuộc vui hồn nhiên đã nối kết được nhiều mối nhân duyên.

Hội đua thuyền có nhà vua tham dự, đặc biệt hào hứng. Hàng trăm chiếc thuyền lướt nhanh như chớp giữa dòng, hòa nhịp với tiếng trống dồn dập, nước dậy sóng cuộn. Một con rùa vàng rẽ nước nổi lên, đội ba quả núi, xòe bốn chân, nhe răng, trợn mắt, phun nước biểu diễn, đoạn hướng tới ngai vua cúi đầu chào. Đây là một dạng của trò múa rối nước.

Ngoài ra còn có trò chơi Trúc Sơn, phát khởi từ thời vua Lê Đại Hành. Đó là một bè nổi lớn có đan hòn núi giả bằng tre, gọi là Vạn Thọ Nam Sơn. Quanh núi được trồng các loại cây thật, tạo nên vẻ um tùm của một vùng sơn lâm hoang dã, soi bóng lung linh trên mặt nước. Chen giữa cây cối là các con vật giả như voi, hổ, tê giác, khỉ… được kết bằng mây, vải, gấm trông như thật.

Và để tạo nên khung cảnh sống động, một số nghệ nhân còn nhái tiếng loài vật, nên thỉnh thoảng từ hòn giả sơn lại vang lên tiếng hổ gầm, tiếng voi rống, tiếng sấu kêu rất hấp dẫn. Vào ban đêm, muôn vàn hoa đăng lênh đênh quanh giả sơn. Trong khi ấy thì ở thuyền rồng, yến tiệc bày ra linh đình, thâu đêm suốt sáng.

Vào mùa xuân năm Mậu Thìn (1028), vua Lý Thái Tổ lâm bệnh nặng rồi từ trần ở điện Long An, trị vì được 19 năm, hưởng thọ 55 tuổi. Nhà vua là người nhân từ, tài đức, đã đưa xã hội rối ren cuối thời Tiền Lê đi đến ổn định, mở đầu cho thời kỳ thịnh trị của đất nước. Linh cữu nhà vua được an táng tại quê hương của ngài. Bảy vì vua Lý kế tiếp cũng được an táng ở đây. Ngày nay dấu tích các lăng mộ này không còn, chỉ còn lại ngôi đền thờ chung là đền Lý Bát Đế.

Nhớ ơn người đã khai sáng ra nhà Lý, một triều đại đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng và phát triển đất nước sau này, hàng năm, vào ngày 16 tháng 3 âm lịch (ngày mất của Lý Thái Tổ), dân chúng mở “Lễ hội Đăng quang” để kỷ niệm cuộc lên ngôi lịch sử của Lý Công Uẩn. Cuộc lễ được tiến hành trước tiên ở chùa Cổ Pháp (còn gọi là chùa Dặn) rồi sau mới tiếp tục ở đền Lý Bát Dế.

Đền Lý Bát Đế (hay còn gọi là đền Đô, Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Ảnh: Đức Hòa

Một lễ rước kiệu long trọng được cử hành. Số kiệu được rước là tám chiếc, tượng trưng cho tám vị vua nhà Lý. Sau đó là các trò chơi như đấu vật, đu dây, chọi gà, làm cho con người cứ ngỡ đang số trong thời nhà Lý.

Ảnh: Kiệu thờ của các vua Lý ở đền Lý Bát Đế
Nguồn: Nguyễn Huy Khôi

1. Tượng Lý Công Uẩn trong chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng Ảnh: Sách Chùa Việt Nam
2. Tượng mẹ Lý Công Uẩn Ảnh: Sách Chùa Việt Nam
3. Tượng thiền sư Vạn Hạnh Ảnh: Sách Nhưng ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam
Tam quan chùa Tiêu, nơi ngày xưa sư Vạn Hạnh trụ trì.
Ảnh: Đức Hòa

Tháp Lý Khánh Văn ở làng Đình Bảng.
Ảnh: Đức Hòa

1. Nơi sinh Lý Công Uẩn
2. Đền thờ mẹ Lý Công Uẩn ở phía sau chùa Cổ Pháp Ảnh: Đức Hòa
3. Tượng mẫu (mẹ Lý Công Uẩn) Ảnh: Đức Hòa
4. Cổng đình Sấm làng Dương Lôi, Từ Sơn, Bắc Ninh Ảnh: Phạm Hoài Thanh

Khu mộ ông bà ngoại của Lý Công Uẩn ở cánh đồng Miễu, tục truyền là “mộ tổ” nay thuộc phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh.
Ảnh: Phạm Hoài Thanh

Đền thờ mẹ Lý Công Uẩn ở làng Dương Lôi, phường Tân Hồng, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh.
Ảnh: Phạm Hoài Thanh

Tượng thờ Lý Công Uẩn trong đình Sấm.
Ảnh: Phạm Hoài Thanh

Lăng Lòng Chảo (gò đất tương truyền xưa là lăng Lý Công Uẩn tại Bắc Ninh).
Ảnh: Ngọc Hải

Tài liệu tham khảo

  • Làng xã ngoại thành Hà Nội, Bùi Thiết, Hà Nội, 1980.
  • Nam quốc vĩ nhân truyện, Cung Thúc Thiềm, Sài Gòn, 1968.
  • Việt Sử khảo lược, Dương Kỵ, Thuận Hóa, 1971.
  • Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch, Hà Nội, 1971.
  • Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy Anh, Sài Gòn, 1961.
  • Danh nhân nước nhà, Đào Văn Hội, Sài Gòn, 1951.
  • Thành cổ Việt Nam, Đỗ Văn Ninh, Hà Nội, 1983.
  • Tổ tiên ta đánh giặc, Học viện quân sự, Tây Ninh, 1975.
  • Việt sử kinh nghiệm, Lạc Tử Nguyễn Văn Hầu, Sài Gòn, 1957.
  • Đại cương lịch sử Việt Nam, Lê Mậu Hân (chủ biên), Hà Nội, 1998.
  • Lịch sử Việt Nam tập I, nhiều tác giả, Hà Nội, 1971.
  • Việt sử tiêu án, Ngô Thời Sỹ, Bản dịch, Sài Gòn, 1960.
  • Danh tướng Việt Nam, Nguyễn Khắc Thuần, TP. Hồ Chí Minh, 1996.
  • Các triều đại Việt Nam, Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, Hà Nội, 1995.
  • Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, Tôn Nữ Quỳnh Trân (chủ biên), TP Hồ Chí Minh, 1993.
  • Lịch sử Việt Nam, giáo trình dành cho ngành du lịch, Tôn Nữ Quỳnh Trân, TP Hồ Chí Minh, 1997.
  • Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Sài Gòn, 1964.

PHỤ LỤC

HÌNH TƯỢNG CON RỒNG VIỆT NAM

Rồng (chùa Thái Lạc thời Trần).
Ảnh: Sách Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần (thế kỷ 11-12) của Tống Trung Tín

Con rồng là một hình tượng có địa vị đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam và đã từng là biểu tượng linh thiêng liên quan đến truyền thuyết con rồng cháu tiên của người Việt. Tương phản với hình tượng con rồng độc ác, tượng trưng cho cái xấu của các nước Tây phương, con rồng Việt Nam hiền lành, là hình tượng của mưa thuận gió hòa, niềm mơ ước của cư dân trồng lúa nước. Về sau, con rồng Việt Nam trở thành biểu trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng Thiên tử qua các thuật ngữ như: bệ rồng, mình rồng…

Rồng Trung Quốc – Sách: Peking a tale of three cities
Rồng Nhật – Sách: Mỹ thuật Châu Á
Rồng Châu Âu – Sách: The fountains of Petrodvorets near Leningrad
Những hình tượng sơ khai của rồng Việt Nam trên trống đồng Đông Sơn (giao long – cá sấu).
Ảnh: Sách Drum Đông Sơn.

Hình tượng rồng đã được người Việt hình dung lên từ thời đại Long Vương. Đó là một con vật thân dài có vẩy, được chạm trổ trên các đồ đồng của thời ấy. Tuy thế, con rồng thời này vẫn còn là hình ảnh của con vật giống như cá sấu. Lần lần, cuộc sống hiếu hòa của người Việt đã biến con cá sấu hung dữ thành con rồng hiền hòa, phù hộ cho người dân nông nghiệp.

Ảnh trên: Hình rồng thời Lý
Ảnh dưới: Rồng chạm nổi mặt bên bia đá chùa Long Đọi – Hà Nam (Bản rập)
Nguồn: Sách Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam

Đến đời nhà Lý, bắt đầu bằng hình tượng “rồng lên” (thăng long) thì con rồng được thần thánh hóa, mang đậm nét linh thiêng. Lý Thái Tổ đem hình ảnh rồng bay lên để đặt tên cho đất đế đô, tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc. Vì rồng thời Lý mang mơ ước của cư dân nông nghiệp, nên luôn luôn được tạo trong khung cảnh của nước, của mây cuộn. Rồng thời Lý được biểu tượng bằng một con vật mình dài như rắn, thân trơn nếu là con nhỏ. Nếu là con lớn thì thân có vẩy và lưng có vây. Thân rồng uốn cong nhiều lần, uyển chuyển theo hình sóng lượn, mềm mại và thoải dần về đuôi.

Ảnh trên: Rồng đuổi nhau, chạm nổi trên bệ đá tượng Adiđà chùa Phật Tích, Bắc Ninh
Nguồn: Sách Chùa Việt Nam
Ảnh dưới: Rồng đất nung, thế kỷ 11-12
Nguồn: Sách Artisanat du Vtet Nam của Nguyễn Khắc Viện – Lê Thanh Đức – Lê Vượng

Rồng thời Lý có bốn chân, mỗi chân có ba móng cong nhọn. Đầu rồng ngẩng cao, miệng há rộng với hai hàm răng nhỏ, đang vờn đớp viên ngọc quý. Từ mũi rồng thoát ra ngọn lửa, đó là mào lửa. Trên trán rồng có hoa văn hình chữ “S”. Nhiều nhà khoa học cho rằng đấy là dạng cổ tự của chữ “lôi”, tượng trưng cho sấm sét, mây mưa. Mái chùa, cung điện, thuyền… đều được hình tượng rồng tô điểm.

Rồng chạm trên cốn gỗ chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) thời Trần.
Nguồn: Sách Mỹ thuật thời Trần

Sang đời Trần (1225-1400), hình tượng con rồng có nhiều biến đổi. Rồng thời Trần không còn mang nặng ý nghĩa mơ ước nguồn nước, mà trở nên uy nghi và quyền lực hơn. Dạng tự chữ S biến thành hình cong hoặc mất đi, đồng thời trên đầu rồng xuất hiện cặp sừng và đôi tai. Đầu rồng nghiêm trang, đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng võng hình yên ngựa. Đuôi rồng thẳng và nhọn. Các vẩy trở nên đa dạng hơn. Có khi chỉ là những đường cong nhẹ nhàng, có khi lại như những nửa hình hoa tròn có nhiều cánh đều đặn.

Cánh cửa gỗ chạm rồng chùa Phổ Minh thời Trần (1262).
Bảo tàng Nam Định
Nguồn: Đức Hòa

Rồng chạm nổi bệ tam thế, đá, chùa bối Khê (Thanh Oai – Hà Tây)
Nguồn: Sách Mỹ thuật thời Trần

Rồng cũng là hoa văn mà các vua triều Trần phải xăm lên đùi mình để giữ truyền thống của cư dân ven biển, là con cháu của dân Lạc Việt. Tục lệ vua xăm rồng lên đùi được kéo dài cho đến đời vua Trần Anh Tông mới chấm dứt (1293-1314). Vua Trần Anh Tông không thích việc xăm mình, mỗi lần Thượng hoàng Trần Nhân Tông nhắc nhở, nhà vua lại lẩn tránh; nhắc mãi không được, Thượng hoàng cũng đành thôi.

1. Chuông chùa Bình Lâm (Vị Xuyên – Hà Giang) 1296 đời Trần Anh Tông Ảnh: Báo ảnh Việt Nam
2. Rồng gỗ (chùa Thái Lạc thời Trần)
3. Rồng đá cụt đầu hai bên cổng thành nhà Hồ Ảnh: Sách Điêu khắc cổ Việt Nam

Rồng đá nhìn chính diện, giữa trán bia Vĩnh Lăng
(Lăng vua Lê Lợi – Lê Thái Tổ), thế kỷ 15 (1443), bản rập giấy dó
Nguồn: Sách Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam

Rồng thời Hậu Lê (thế kỷ 15) tượng trưng cho quyền uy phong kiến và có hình dáng thay đổi hẳn. Rồng không nhất thiết là con vật dài, mình rắn uốn lượn đều đặn nữa mà được diễn tả trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là chiếc mũi to. Thân rồng thường cuộn lớn. Chân có nắm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn.

Ảnh trên: Rồng đá thềm bậc điện Kính Thiên (thành Hà Nội) thời Lê sơ -1467
Nguồn. Sách Mỹ thuật thời Lê sơ

Ảnh dưới: Rồng lăng vua Lê Hiến Tông ở Lam Sơn, Thanh Hóa Bản rập trên bia đá, 1505
Nguồn: Sách Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam
Rồng đá, bệ tượng Phật chùa Mễ Sở, Châu Giang, Hưng
Yên Thời Mạc, 1573. Bản rập. Ảnh: Sách Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam

Thành bậc đá chạm rồng thời Mạc, chùa Nhân Trai, Hải Phòng Ảnh: Sách Mỹ thuật thời Mạc
Rồng đôi bằng gốm men trắng hoa lam thế kỷ 16 thời Mạc – trên một tháp mô hình Phật giáo. Tiên Lãng, Hải Phòng. Ảnh: Sách Mỹ thuật thời Mạc
Rồng chạm nổi trên gốm hoa lam (Bát Tràng) thế kỷ 15-16 (Lê Lợi – Lê Thánh Tông – Mạc) Ảnh: Gốm Bát Tràng thế kỷ 14-19 5-6. Rồng vẽ trên gốm hoa lam Bát Tràng. Thế kỷ 16 thời Mạc Ảnh: Gốm Bát Trùng thế kỷ 14-19
Rồng chạm nổi trên gốm Bát Tràng thế kỷ 17-18 (vua Lê chúa Trịnh)
Ảnh: Gốm Bát Tràng thế kỷ 14-19

Chân đèn gốm màu Bát Tràng thế kỷ 16-17 (Mạc – Lê Trịnh)
Ảnh: Sách Gốm Bát Tràng thế kỷ 14-19

Thời Lê xuất hiện biểu tượng của bốn con vật thiêng (tứ linh) là “long, ly, quy, phụng”. Rồng đứng đầu trong bộ này, tượng trưng cho vua chúa và uy quyền. Sau đó là ly (kỳ lân), tượng trưng cho thánh nhân. Rồi đến quy (rùa), tượng trưng cho sự bền vững lâu dài của xã tắc. Cuối cùng là phụng (chim phượng), tượng trưng cho nữ giới và văn học.

Cưỡi trên rồng xem đấu vật. Trích đoạn vằn gió đình Phù Lưu, Bắc Ninh đầu thế kỷ 17 (thời vua Lê chúa Trịnh). Bản rập.
Ảnh: Sách Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam.

Tiên cưỡi rồng và mặt trời- trán bia (mặt sau) chùa Reo, Hành Thiện, Nam Định (thời Trịnh Nguyễn phân tranh 1671). Bản rập trên bia đá. Ảnh: Sách Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam.
Mả táng Hàm Rồng (gỗ), nửa sau thế kỷ 17. Đình Chu Quyến huyện Ba Vì, Hà Tây. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Ảnh trên: Cặp chân nến “trúc hóa long” gốm men rạn Bát Tràng thế kỷ 18 (thời Lê Trịnh – Tây Sơn). Sách: Gốm Bát Tràng thế kỷ 14-19.
Ảnh dưới: Đầu đao chùa Tây Phương. Sách Chùa Việt Nam.

Rồng nóc điện Thái Hòa (Huế) thời Nguyễn.
Ảnh: Báo Văn Nghệ Trẻ số Xuân 1999.

Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi, tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được biểu hiện ở nhiều tư thế, khi thì ẩn mình trong mây hay ngậm chữ thọ, hoặc là hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ… Phần lớn mình rồng không dài ngoằng mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Vây trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng thường được uốn sóng từ dưới mắt rồi chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua thì có năm móng, còn lại thì bốn móng.

Ảnh trái: Đỉnh gốm men rạn vẽ nhiều màu Bát Tràng (thế kỷ 19 – thời Nguyễn)
Sách: Gốm Bát Tràng thế kỷ 14-19
Ảnh phải: Hình rồng trên mái cửa Ngọ Môn (Huế)

Rồng trên áo đại triều của Hoàng Thái tử Đồng Khánh (trước khi lên ngôi)

Tượng rồng gốm men trắng ngà Bát Tràng (thế kỷ 19, thời Nguyễn) Ảnh: Sách Gốm Bát Tràng thế kỷ 14-19
Trên: Hình rồng trên nóc Bến Nhà Rồng (Bảo tàng Hồ Chí Minh tại TP Hồ Chí Minh)
Dưới: Tượng rồng tại khu vui chơi Suối Tiên, TP Hồ Chí Minh
Ảnh: Nguyễn Thành Công

Hiện nay hình tượng con rồng tuy không còn tính chất tối thượng, thiêng liêng, nhưng cũng được đưa vào trang trí cho các công trình kiến trúc, hội họa, chạm khắc nghệ thuật… Đặc biệt ở thành phố Hồ Chí Minh có khu vui chơi Suối Tiên cũng xây một con rồng khá lớn đang trong tư thế vươn mình dậy. Có thể nói, ở thời điểm nào, con rồng vẫn là một phần trong cuộc sống văn hóa của người Việt.

Rồng hai đầu trên một chiếc vòng đeo cổ của người Thái. Theo M. Colani, sách Người Mường ở Hòa Bình
Động vật hai đầu trên một vòng đeo cổ Mường. Theo sách Người Mường ở Hòa Bình của Từ Chi
Rồng Mường dệt trên thổ cẩm (cạp váy, chăn…). Theo sách Người Mường ở Hòa Bình của Từ Chi

LịCH Sử VIỆT NAM BằNG TRANH TậP 14

THĂNG LONG BUỔI ĐẦU

Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN MINH NHỰT

Chịu trách nhiệm nội dung: NGUYỄN THẾ TRUậT

Biên tập: CúC HƯơNG

Biên tập tái bản: Tú UYÊN

Bìa: BIÊN THÙY

Sửa bản in: ĐìNH QUÂN Trình bày: BÙI NGHĩA