Tập 18: Lý Thường Kiệt

Ất Dậu (1105), Lý Thường Kiệt mất, thọ 86 tuổi. Vua Lý Nhân Tông vô cùng thương tiếc, cho soạn một bài hát để tán dương công trạng của ông. Những chiến công lừng lẫy của Lý Thường Kiệt mãi mãi chói ngời trong lịch sử dân tộc Việt Nam ta.

BÀI VĂN LỘ BỐ KHI ĐÁNH TỐNG

Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham tà của Vương An Thạch, bày những phép “thanh miêu”, “trợ dịch” khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thỏa cái mưu nuôi mình béo mập.

Bởi tính mệnh muôn dân đều phú bẩm tự trời, thế mà bỗng sa vào cảnh éo le độc hại. Lượng kẻ ở trên cố nhiên phải xót. Những việc từ trước, thôi nói làm gì!

Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn thăng bình!

Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi!

Theo TRẦN VĂN GIÁP

Đền thờ Lý Thường Kiệt tại huyện Hà Trung, Thanh Hóa.
Ảnh: Sách Đại cương Lịch sử Việt Nam
Đoạn sông Như Nguyệt, phía sau chùa Bồ Vàng, thôn Như Nguyệt, xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, nơi vào năm 1077 là phòng tuyến của quân Lý.
Ảnh: Sách Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đại Việt sử ký toàn thư (bản dịch) tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993.
  2. Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Lịch sử ngoại giao thời Lý. NXB Văn học, Hà Nội, 1994.
  3. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.
  4. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Trung tâm học liệu.
  5. Trần Quốc Vượng và Trần Văn Tấn, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1987.
  6. Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1993.
  7. Danh nhân Hà Nội, Hội Văn nghệ Hà Nội, 1973.
  8. Thạch Phương và Lê Trung Vũ, 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, 1995.

PHỤ LỤC

KIẾN TRÚC THỜI LÝ

Mảnh vòm cửa đất nung, thế kỷ XI-XII, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Đức Hòa

Thái bình thịnh trị, chặn đứng quân xâm lược từ xa, bảo toàn trọn vẹn các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Tổ quốc trong suốt hai thế kỷ. Đó là đặc điểm nổi bật của quốc gia Đại Việt thời Lý.

Trên nền tảng đó, những công trình kiến trúc với quy mô chưa từng thấy đã mọc lên ở hầu khắp các trọng điểm của hai địa bàn của người Việt lúc bấy giờ: đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Mã.

Căn cứ vào sử sách cũng như di tích, có thể tạm qui kiến trúc thời Lý vào hai loại hình chính là tôn giáo và cung đình. Như chúng ta đều biết, vừa mới lên ngôi năm 1009 thì năm sau, 1010, vua Lý Thái Tổ đã cho dời đô ra Thăng Long. So với chu vi kinh thành Hoa Lư thì chu vi kinh thành Thăng Long đã lên đến 20km, tức là gần gấp 7 lần. Kiến trúc cung đình được dịp phát triển. Có rất nhiều tòa cung điện trong Hoàng thành. Đáng chú ý là: kể từ thời Lý, thành Thăng Long có 3 vòng thành khép kín gồm Long thành, Hoàng thành và La thành. Rất tiếc, sau 10 thế kỷ, chúng ta chỉ còn có thể thấy được một phần các vòng thành kể trên và chỉ thấy vết tích nền móng các cung điện thông qua khai quật khảo cổ…

Bản đồ di tích chùa tháp thời Lý.

Thời Lý, đạo Phật là quốc giáo. Do đó, các vua Lý đã cho xây rất nhiều chùa, tháp. Sử cũ ghi: riêng năm 1031, triều đình đã xuất tiền kho làm chùa, quán ở 950 nơi. Sử cũng ghi: riêng bà Ỷ Lan Nguyên phi đã cho dựng hơn 100 ngôi chùa.

Chùa Tháp thời Lý thường có quy mô to lớn, bề thế mà các đời sau khó sánh kịp. Ví dụ như chùa Hương Lãng, dựng trên diện tích gần 40.000m2 (345mx115m) hay chùa Giạm dựng trên đồi, có tổng diện tích khoảng 8.400m2, được bạt thành 4 lớp nền, mỗi lớp chênh nhau 8m độ cao. Tháp Báo Thiên ở Thăng Long cao 20 trượng (khoảng 80m). Tháp Chương Sơn có cạnh đáy là 19mx19m được dự đoán cao tối thiểu là 56,5m và tối đa có thể là 95m…

CHÙA GIẠM
(Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh)
Ảnh: Sách Mỹ thuật thời Lý, NXB Văn hóa, 1973.
Bản vẽ: Xuân Kế

Bậc thềm chùa Giạm (Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh), kè bằng đá, phía trên là cột biểu của chùa.
Ảnh: Sách Mỹ thuật thời Lý, NXB Văn hóa, 1973

Chùa Phật Tích. Kè đá của bậc thềm thứ nhất. Ảnh: Đức Hòa

Nền CHÙA PHẬT TÍCH
(Huyện Tiên Du, Bắc Ninh
Theo sơ đồ của sách Mỹ thuật thời Lý, NXB Văn hóa, 1973.

Tổng thể – mặt bằng – mặt cắt chùa Một Cột (Diên Hựu) do Bezacier vẽ thời Pháp thuộc, trước khi chùa bị Pháp phá hủy năm 1954 và ta xây lại năm 1955.
Theo Sách Kiến trúc cổ Việt Nam

Lối kiến trúc của các công trình cũng có nhiều nét đặc biệt hầu như chỉ có ở thời Lý. Đó là các chùa có nền hình vuông (chùa Một Cột, chùa Bách Môn…). Đó là tòa kiến trúc trên một cột thật độc đáo và nghệ thuật (chùa Một Cột, cột biểu chùa Giạm với vết tích giá đỡ kiến trúc bên trên…)

Chùa Bách Môn nhìn từ phía trước. Vẽ lại từ một ảnh đen trắng thời Pháp thuộc. Bản vẽ của Đức Hòa
Mỗi cạnh chùa = 26m, các mũi tên chỉ cửa ra vào tổng cộng đủ 100 cửa (Bách Môn).
Sơ đồ mặt bằng chùa Bách Môn (Việt Đoàn, Tiên Sơn, Bắc Ninh).
Bản vẽ: Xuân Kế (chủ yếu dựa vào lời chỉ dẫn của nhân dân địa phương) Sách Mỹ thuật thời Lý, NXB Văn hóa, 1973

Một góc thành bậc – đá ghép. Nền tháp Chương Sơn (Yên Lợi, Ý Yên, Nam Định)
Ảnh: Sách Mỹ thuật thời Lý, NXB Văn hóa, 1973

Tháp thời Lý là những kiến trúc cao tầng đầu tiên của dân tộc ta. Các kiến trúc sư còn biết lợi dụng địa hình để khuếch trương hiệu quả kiến trúc, tạo cảm giác đột khởi, đồ sộ, đầy sức thuyết phục về quy mô… đó là các chùa: Phật Tích trên núi Lạn Kha, chùa Giạm và chùa Long Đọi trên núi Đọi, tháp Chương Sơn trên núi Ngô Xá, tháp Báo Thiên trên gò cao bên hồ Lục Thủy (hồ Gươm). Các núi đồi kể trên thường mọc đơn độc giữa đồng bằng nên chiều cao của các chùa tháp càng gây ấn tượng mạnh.

Núi Long Đọi (Đọi Sơn, Duy Tiên, Hà Nam). Ảnh: Sách Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam
Ảnh trái: Hai tượng Kim Cương bằng đá trấn giữ cửa tháp Long Đọi (1121).
Ảnh phải: Hoa văn chạm nổi trên vách đá của tháp Long Đọi (1121).
Sách Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam

Gạch xây tháp trang trí Rồng và Vũ nữ thời Lý, thế kỷ XI – XII cao 30cm.
Bảo tàng Việt Nam – Hà Nội.
Ảnh: Đức Hòa

Chùa, tháp thời Lý đều luôn luôn được trang trí bằng điêu khắc tượng tròn và chạm nổi, làm cho các tòa kiến trúc trở nên đa dạng, sinh động và đẹp đẽ hơn. Đó là tám tượng Kim cương trấn giữ bốn cửa tháp, là sấu đá trên thành bậc, là rồng phượng đúc nổi trên các đầu đao, nóc nhà hay chạm nổi trên các diềm bia, vách tường v.v…

Cảnh phế tích chùa Hương Lãng (chùa Lạng, Minh Hải, Mỹ Văn, Hưng Yên).
Ảnh: Sách Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam
Tay vịn thành bậc đá có hình con sấu và chạm nổi hình chim phượng múa – chùa Hương Lãng. Ảnh: Sách Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam

Tảng đá kê chân cột chùa Phật Tích, Tiên Sơn, Bắc Ninh.
Ảnh: Sách Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam

Chân cột chùa bằng đá chạm hình sóng nước, tháp Tường Long, Đồ Sơn, Hải Phòng.
Ảnh: Sách Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam

Miệng giếng chùa Phật Tích – Đất nung – Thế kỷ XI. Đường kính bên trong miệng giếng ~ 80cm. Bày tại sân Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội.
Ảnh: Đức Hòa
Rồng – Gạch đất nung trong kiến trúc Lý,thế kỷ XI – XII. Ảnh: Sách điêu khắc cổ Việt Nam, NXB Mỹ thuật, 1997

Gạch trang trí kiến trúc (lát sân cung điện) – Đất nung thời Lý – Khai quật tại làng Vĩnh Phúc, Hà Nội – Bốn viên kết hợp, tổng mỗi cạnh là 80cm.
Ảnh: Đức Hòa
Gạch lát sân trang trí hình hoa sen
– Đất nung thời Lý – Khai quật tại Hà Nội, mỗi cạnh là 40cm. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam,
Hà Nội. Ảnh: Đức Hòa

Vật liệu trang trí kiến trúc thời Lý được khai quật trong thành Hà Nội.
Ảnh: Huy Khâm – Báo Thể thao Văn hóa số Xuân Kỷ Mão – 1999

Mặc dù di tích thời Lý hầu hết bị phá hủy bởi thiên tai và địch họa nên không còn nguyên vẹn đến ngày nay, nhưng do được đời sau trùng tu hay chí ít vẫn còn nền móng vững chắc nên chúng ta vẫn còn có cơ sở để thẩm định phần nào các giá trị kể trên.

Sau cùng, chỉ xin nhấn mạnh rằng: Kiến trúc thời Lý thực sự là những kỳ công của dân tộc ta bởi vì cả ngàn năm Bắc thuộc trước đó, kiến trúc, điêu khắc, trang phục… hầu hết đều là những trang bỏ trắng trong lịch sử Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Du Chi, Nghệ thuật kiến trúc thời Lý. Sách Mỹ thuật thời Lý., Viện Nghệ thuật – Bộ Văn hóa, 1973.
  2. Chu Quang Trứ, Mỹ thuật Lý – Trần, mỹ thuật Phật giáo Việt Nam, NXB Thuận Hóa.
  3. Tống Trung Tín và Hà Văn Cẩn, Lần theo dấu tích kinh thành Thăng Long,

Báo Khoa học và Đời sống số 6, 7, 8 ngày 8/2/1999.

LỊCH SỬ VIỆT NAM BẰNG TRANH TẬP 18

LÝ THƯỜNG KIỆT

Trần Bạch Đằng chủ biên

Lê Văn Năm biên soạn

Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN MINH NHỰT

Chịu trách nhiệm nội dung: NGUYỄN THẾ TRUẬT

Biên tập: CÚC HƯƠNG – LIÊN HƯƠNG

Biên tập tái bản: TÚ UYÊN Bìa: BIÊN THÙY

Sửa bản in: ĐÌNH QUÂN Trình bày: VŨ PHƯỢNG