Tập 2: Huyền sử đời Hùng – Con rồng cháu tiên – Thánh Gióng
Hùng vương đặt tên nước là Văn Lang. Người bỏ ra nhiều thời gian đi tìm nơi có thế đất, thế nước để đóng đô. Đến chuyến đi thứ sáu mới tìm ra. Đó là vùng hội tụ của ba con sông Lô, sông Thao và sông Đà, hai bên có núi Tản Viên và Tam Đảo, dân cư đông đúc, đồng ruộng tươi xanh, xa xa là các dãy đồi thoai thoải và phía trên cao là một hòn núi kỳ tú. Vua bèn chọn nơi đây làm kinh đô (nay thuộc tỉnh Phú Thọ).


Vua tổ chức một hàng ngũ quan chức gồm có các Lạc hầu để giúp mình trị nước. Vua chia nước ra làm 15 bộ. Đa số các em của vua cai trị các bộ này, họ được gọi là các Lạc tướng. Vua và các Lạc tướng có quyền cha truyền con nối. Dưới các bộ là các làng xã, có các Bố chính tức là các già làng đứng đầu. Con trai của vua được gọi là Quan lang, còn con gái thì gọi là Mị nương. Đó là tổ chức sơ khai của dân Lạc Việt.
Dưới các làng xã là gia đình, trong gia đình vẫn còn ảnh hưởng khá đậm của chế độ mẫu hệ thời trước, nhưng người đàn ông đã giữ vai trò quan trọng. Chồng lo toan mọi việc trong gia đình nhưng ý kiến của vợ vẫn được tôn trọng. Cả vợ lẫn chồng đều cùng làm ruộng. Khi nào rảnh rỗi thì chồng đi săn, đi đánh cá, vợ đi hái, đi lượm. Con cái được cha mẹ chăm sóc nuôi dưỡng cho đến tuổi thành đinh (trưởng thành).

Vua Hùng rất yêu thương dân. Người hay đi thăm dân và thân hành coi sóc việc trồng lúa của dân. Thuở ấy Văn Lang có ruộng Lạc, tức là ruộng ở chỗ trũng ven sông Hồng, sông Mã. Dân theo thủy triều lên xuống mà làm ruộng, vì thế họ được gọi là Lạc dân. Lạc dân dùng phương pháp “thủy nậu” để cấy lúa. “Thủy nậu” là cách đạp cho cỏ sục bùn rồi mới cấy lúa lên. Giống lúa thoạt tiên là những hạt nếp, hạt tẻ mọc hoang, dần dần được Lạc dân thuần dưỡng. Thời đó, Lạc dân vẫn ăn gạo nếp là chính.


Hàng năm, vua vẫn thường cùng các già làng lên núi cúng vía lúa để cầu trời đất cho dân trúng mùa. Nơi vua Hùng khấn vía lúa trở thành nơi thờ thần Lúa, sau này chính là đỉnh núi Hùng (thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, Phú Thọ). Núi Hùng là một quần thể ba ngọn núi Cao Sơn, Ất Sơn và Viễn Sơn. Nơi đây, biểu tượng của lúa một hòn đá đẽo hình vỏ trấu dài khoảng 60cm đã từng được nhân dân thờ cúng.
Sông hồ nước Văn Lang lắm tôm cá nhưng cũng nhiều loài thủy quái thường hay sát hại dân chài. Dân chài bèn kêu than với vua. Biến được hiểm họa thường đe dọa tính mạng của dân và ngăn trở việc đánh bắt thủy sản vốn là nguồn lợi quan trọng thời bấy giờ, lòng vua luôn nặng trĩu lo âu để tìm cách tiêu diệt thủy quái.

Một hôm vào rừng, bắt gặp một con tắc kè hình dáng giống như một con cá sấu hung dữ thu nhỏ chạy ngang chân và trốn lẫn vào đám lá khô, vua Hùng cố tìm xem nó ở đâu nhưng không thể phân biệt đâu là con vật, đâu là những chiếc lá vàng đỏ úa. Người giật mình chợt hiểu: con tắc kè đã tự nhiên đổi màu da của mình theo màu lá để tự vệ. Như thế con người cũng có thể hóa trang thành loài thủy quái để chúng tưởng là đồng loại.
Về cung, vua triệu tập dân chài và chỉ cho họ cách lấy chàm vẽ lên trên mình hình ảnh những loài thủy quái như cá sấu, rắn. Biện pháp ấy quả rất hiệu nghiệm. Dân chài không còn bị sát hại nữa. Từ đó, dân Việt có tục lệ xăm mình. Tục lệ này được lưu truyền cho đến đời vua Trần Anh Tông (12931314) mới dứt. Hùng vương còn cho vẽ hai con mắt trước các mũi thuyền để đánh lừa thủy quái, bảo vệ người đi trên sông nước. Tục lệ này ngày nay vẫn còn.


Ngoài việc chống loài thú dữ dưới nước, vua Hùng còn giúp dân chống lại loài thú dữ trên cạn bằng cách khuyến khích dân chúng lấy tre gỗ dựng nhà sàn. Và như thế những căn nhà mái cong hình thuyền hay hình vòm trên những cọc gỗ cao ráo có khả năng ngăn cách thú dữ với cư dân đã được dựng lên khắp Văn Lang. Đó là bóng dáng những căn nhà sàn còn thấy ở nhiều vùng dân tộc ít người hiện nay.
An cư thì lạc nghiệp. Nền kinh tế của nước Văn Lang đã có những bước phát triển đáng kể nhờ kỹ thuật luyện kim. Những công cụ sản xuất bằng đồng như cái cuốc, cái cày đã giúp cho các cánh đồng trĩu nặng lúa. Trống đồng được đúc ra, không chỉ dùng trong các cuộc tế lễ, ma chay mà còn để trao đổi với các nước khác(*). Dân chúng sống trong cảnh thanh bình, ấm no.
(*) Trống đồng Đông Sơn đã được tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ ở các nước Indonesia, Malaysia, Thái Lan.

Để tán thưởng cuộc sống hạnh phúc ấy, dân chúng thường tổ chức các buổi lễ hội tưng bừng ca ngợi công đức của Hùng vương và tạ ơn trời đất. Sau những nghi lễ tế trời mừng được mùa, từng tốp người mặc áo quần làm từ lông chim, tay cầm khèn hoặc giáo nhảy múa theo nhịp trống, cồng, sênh, phách rộn rã. Những trai gái tuổi tìm bạn cùng nhau chan hòa trong tiếng giã cối rạo rực. Vẳng từ bờ sông là tiếng reo hò cổ vũ cho cuộc đua thuyền.
Các đời vua kế tiếp vẫn được gọi là Hùng vương. Họ nối nghiệp lớn của cha ông và bảo toàn được cuộc sống êm đềm giản dị của dân chúng. Cũng chính từ cuộc sống khó khăn vất vả nhưng hồn nhiên lạc quan ấy, dân Lạc Việt đã để lại những chuyện truyền miệng đậm đà tính dân tộc như Thánh Gióng, sự tích bánh Chưng bánh Giầy, Trầu Cau, Quả dưa hấu, Sơn Tinh Thủy Tinh…
Đời sau, con cháu nhớ ơn các vua Hùng và hàng năm đều tổ chức lễ cúng gọi là Giỗ Tổ vào ngày 10 tháng 3 âm lịch.

Cổng Đền Hùng
Lễ lớn và mang tính truyền thống nhất luôn được tổ chức tại núi Hùng ở Vĩnh Phú và vẫn được gọi là hội đền Hùng. Hôm đó, tại đền Thượng, tức là nơi vua Hùng đã từng làm lễ khấn vía lúa và cũng là nơi sau này, Hùng vương thứ sáu lập đền thờ Thánh Gióng, đã diễn ra một buổi lễ tế trang trọng. Lễ vật gồm có “Tam sinh” tức là bò, dê, heo thui cả con, cùng hương hoa, oản, trầu cau, xôi ngũ sắc, rượu, bánh chưng, bánh dầy…
Đền Thượng
Đồng thời với buổi lễ là đám rước voi, rước bánh chưng bánh giầy, rước kiệu xuất phát từ các làng lân cận, cùng nhau rầm rộ tiến về đền Hạ (phía dưới đền Thượng). Đám rước bánh chưng bánh giầy là một điểm đặc biệt không thể thiếu được của hội đền Hùng. Cuộc rước này nhắc nhở đến tấm lòng của Lang Liêu (Sự tích bánh Chưng bánh Giầy) đồng thời để nhớ tới công đức của vua Hùng đã dạy dân chúng trồng lúa.


Gác chuông Đền Hạ
Lăng Vua Hùng
Đền Trung
Còn rước kiệu là cuộc thi giữa các làng. Các cỗ kiệu được rước đến sân đền. Đến nơi, kiệu cùng cờ quạt đồng loạt được rước chạy quanh sân đền, vì vậy còn gọi là kiệu bay. Dưới chân núi các cô gái đâm đuống (giã gạo), các chàng trai chàm thau (đánh trống đồng) làm vang lên trong không gian lời mời gọi rộn rã.

Trên hồ nước, những cặp thuyền rồng lộng lẫy lướt sóng. Bên bờ là bãi tung còn, đấu vật, cờ người, leo dây, múa rối và đặc biệt là bãi đu tiên. Các cô gái, chàng trai say sưa quay tròn, những tà áo muôn màu tung bay phất phới trong không khí tưng bừng của ngày hội.
Vì ý nghĩa nhớ cội nhớ nguồn, vì tính hấp dẫn của không khí ngày hội, trong dân gian có câu:
Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba.

Vào đời Hùng vương thứ VI, nước Văn Lang bị giặc Ân quấy nhiễu. Chúng phá làng, phá xóm, cướp trống đồng, giết người không gớm tay. Các Lạc tướng, Bố chính ra sức chống ngăn nhưng đều bị giặc Ân đánh hạ. Dân chúng kinh hoàng, khắp nơi im bặt tiếng cười. Ngay cả trẻ thơ cũng chẳng dám khóc to. Còn đâu nữa những buổi đua thuyền hào hứng, những đêm hội tưng bừng. Nhà nhà đóng cửa, rút cầu thang, hãi hùng.

Vua Hùng bối rối vô cùng. Người bèn triệu tập các Lạc hầu lại để bàn kế. Bàn tới, bàn lui bỗng có vị Lạc hầu khuyên vua nên cho rao trong dân chúng để tìm người tài. Vua sực nhớ lại giấc mộng đã ba năm về trước… Hôm ấy, đang thiu thiu ngủ, vua thấy Lạc Long Quân xuất hiện báo cho vua biết sẽ có giặc xâm phạm bờ cõi nhưng thần tướng sẽ xuống giúp đỡ. Tin tưởng sẽ tìm ra người tài, vua ra lệnh tìm kiếm.


Bấy giờ, ở làng Phù Đổng thuộc bộ Vũ Ninh (nay là huyện Gia Lâm, Hà Nội) có một đôi vợ chồng đã lớn tuổi nhưng lại hiếm muộn. Một hôm người vợ thức dậy sớm ra vườn tưới cây, bà bỗng nhìn thấy một vết chân to lớn, dẫm nát cả mấy luống cà. Lấy làm lạ, bà bèn ướm thử chân mình vào, bỗng thấy lòng xúc động. Từ đó, bà có thai và sinh ra một bé trai kháu khỉnh. Không bao lâu sau, người cha mất, người mẹ một mình nuôi con. Cậu bé dễ ăn, dễ uống, nhưng chẳng hề biết nói, biết cười, suốt ngày chỉ nằm im trong chiếc gióng tre(*) treo ở giữa nhà, nên được đặt tên là Gióng.
- Gióng: Quang để gánh.
Một hôm sứ giả đi đến làng Phù Đổng, tiếng rao vang lên từ đầu đến cuối làng:
- Vua Hùng cần người tài đi phá giặc Ân!
Già, trẻ, lớn, bé đều chạy đến xúm quanh sứ giả xôn xao bàn tán, già làng cùng các bô lão lo lắng lắc đầu. Gióng vẫn nằm bất động. Mẹ thấy thế than lên:
- Con ơi! Đất nước lâm nguy, con hãy mau lớn lên để ra giúp nước chứ!


Bỗng bà nghe Gióng nói:
- Mẹ ơi, con nghe lời mẹ ra giúp nước đây. Mẹ hãy mời sứ nhà trời (tức sứ giả của vua Hùng) vào để con thưa chuyện.
Người mẹ hốt hoảng không tin vào tai mình:
- Gióng ơi, con biết nói rồi sao? Gióng gật đầu:
- Việc nước khẩn cấp, xin mẹ đừng chần chừ. Sứ nhà trời không thể đợi lâu.
Người mẹ vừa mừng vừa lo, bèn bảo con:
- Con ơi, con còn nhỏ quá, sức đâu chống được lũ hung tàn? Cậu bé trấn an mẹ hiền:
- Mẹ đừng lo, con đã có cách.
Bà mẹ lóng cóng chạy đi gọi già làng:
- Già làng ơi, thằng Gióng con ta biết nói rồi, nó lại bảo ta đi mời sứ nhà trời đây. Ta lo lắm!

Già làng sửng sốt:
- Thằng Gióng biết nói? Lại còn đòi đi đánh giặc? Có lẽ Bô đã biết tin, cho người giúp ta chăng?
Mọi người chung quanh cũng đều kêu lên:
- Đúng là Bô sai thần tướng đến giúp ta rồi! Mẹ thằng Gióng cứ ra mời sứ giả nhà trời đi.
Bà mẹ vững lòng hơn, chạy đi mời sứ giả.

Sứ giả đến nhà, thấy Gióng bé tí ti liền bảo:
- Ngươi chỉ cao bằng cây lúa. Giặc Ân thì như thác đổ ầm ầm trên rừng trên núi. Chúng nó ăn tươi nuốt sống ngươi ngay.
Gióng điềm tĩnh trả lời:
- Ta sẽ phá được giặc Ân, sứ về nói với nhà trời (tức là vua Hùng) đúc cho ta một thanh gươm sắt, một con ngựa sắt. Nhà trời không phải lo chi cả.

Nhìn chung quanh thấy nét mặt tin tưởng của mọi người, biết có chuyện lạ, sứ giả bèn phóng ngựa, phi nước đại về kinh đô Phong Châu, báo tin cho vua Hùng biết. Thấy việc xảy ra ứng như giấc mộng, vua Hùng mừng rỡ, ra lệnh thực hiện ngay yêu cầu của Gióng. Dân Lạc Việt thời ấy tuy đã thành thạo trong việc luyện đồng nhưng chỉ mới bắt đầu thời kỳ luyện sắt. Những đồ dùng và vũ khí bằng sắt chưa được sản xuất nhiều. Vì thế các thợ phải làm ngày, làm đêm để rèn, để đúc.
Trong khi ở kinh đô Phong Châu mọi người đang khẩn trương lo vũ khí thì tại làng Phù Đổng, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi. Mẹ nấu bao nhiêu cơm nếp cũng không đủ cho Gióng ăn, hàng xóm chung quanh góp gạo thêm cũng không đủ. Già

làng bèn huy động cả làng giúp. Không đủ nồi để nấu, dân làng phải nấu cả cơm lam(*). Các hũ mắm cá, mắm ba ba cũng được mang đến nhưng chỉ một loáng là Gióng ăn hết ngay. Các cô gái ngồi dệt suốt ngày bên khung cửi nhưng bao nhiêu vải nối mà áo của Gióng vẫn ngắn, vẫn chật. Các cô gái phải
lấy bông lau để kết thành áo.
- Cơm lam nấu bằng cách cho gạo, nước vào ống nứa tươi rồi nướng trên lửa, thường dùng cho lúc đi xa.
Ngựa, gươm, nón và áo giáp đã được đúc xong. Vua Hùng lập tức sai sứ giả mang đến cho Gióng. Khi ấy Gióng đã trở thành một thanh niên khỏe mạnh, tuấn tú. Gióng chỉ vỗ nhẹ một cái là gươm gãy, ngựa gục, giáp tan, nón bể. Thế là phải bắt đầu lại. Sắt mà họ dùng để đúc mềm quá, phải có sắt tốt hơn. Vua Hùng cùng những người rèn, người đúc tìm tòi cách làm, lần này họ làm cẩn thận hơn.