Tập 4: Huyền sử đời Hùng – Tiên Dung – Chử Đồng Tử – Sơn Tinh, Thủy Tinh
Sáng ra, khi quân lính nhà vua thức giấc chuẩn bị sang sông mới nhận ra bên kia sông chẳng có tòa lâu đài thành quách nào. Họ dụi mắt nhìn mãi, nhìn mãi chỉ thấy một bãi đất hoang nổi lên giữa đầm lầy cỏ lác mọc ken dày.
Dân gian biết chuyện lấy làm lạ bèn gọi bãi hoang ấy là bãi Tự Nhiên, còn đầm nước vây quanh là đầm Nhất Dạ hoặc đầm Một Đêm. Mọi người truyền tụng câu chuyện Tiên Dung – Chử Đồng Tử và lập miếu thờ ngay trên bãi đất hoang. Đến nay dấu vết vẫn còn ở vùng Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Ảnh Đền thờ Tiên Dung – Chử Đồng Tử
Muốn vào bãi Tự Nhiên phải dùng thuyền độc mộc rẽ lau lách cỏ rậm vượt qua đầm Nhất Dạ theo những lạch nước chằng chịt. Địa thế nơi đây vô cùng hiểm yếu. Nhờ vậy mà đến năm 545 sau Công nguyên, Triệu Quang Phục(*) đã chọn Dạ Trạch làm căn cứ kháng chiến chống quân nhà Lương suốt ba năm ròng rã. Quân Lương rất sợ và gọi ông là Dạ Trạch Vương (Vua Đầm Đêm).
*Triệu Quang Phục sẽ có truyện riêng ở các tập sau. Ở đây chỉ giới thiệu để thấy đầm Nhất Dạ thực sự tồn tại.
Hùng Vương thứ mười tám có nàng Mỵ nương tên là Ngọc Hoa nhan sắc tuyệt trần. Tiếng nàng trong như suối reo, da nàng trắng như ánh trăng, tóc nàng đen không khác gì đêm tối, dáng nàng uyển chuyển tựa mây bay. Nàng lại đoan trang và chăm chỉ. Vua Hùng rất yêu thương và muốn kén cho nàng một tấm chồng tài ba nên cho quân truyền rao khắp nước để tìm người hiền tài.
Nghe tin vua Hùng kén rể, Thục Vương, thủ lĩnh nước Tây Âu láng giềng cho một đoàn người đem nhiều lễ vật đến xin cưới. Họ dâng lên vua Hùng nào xà cừ, nào chiêng ché, nào trâu, bò, gà, lợn, nhiều không kể xiết.
Vua Hùng có ý bằng lòng, nhưng các Lạc hầu can rằng: “Thục Vương hay quấy nhiễu biên cương, có ý dòm ngó nước ta. Vả lại, họ Thục cũng đã già còn Mỵ nương thì như tiên nữ. Phải là người trẻ trung và có đủ tài đức mới xứng. Không nên ưng thuận”. Vua Hùng nghe lời, từ chối không nhận Thục Vương làm rể. Thục Vương tức giận vô cùng, dặn con cháu sau này phải diệt trừ nước Văn Lang để rửa nhục. Từ đó, Tây Âu và Văn Lang hiềm khích với nhau.
Một hôm, có hai chàng trai cùng lúc đến cầu hôn Ngọc Hoa.
Vua lấy làm lạ, hỏi lai lịch cả hai người.
Một chàng là Sơn Tinh, sống ở núi rừng. Chàng có một quá khứ bí ẩn và oai hùng. Không ai biết cha mẹ của chàng là ai. Chỉ biết chàng có một người cha nuôi làm tiều phu. Người tiều phu ấy đã tìm thấy chàng trong một trường hợp lạ lùng. Hôm ấy, người tiều phu phải đi vào rừng sâu tìm củi, bỗng nghe tiếng trẻ khóc.
Ông lần theo tiếng khóc và thấy một con dê đang bới đống cỏ khô để lộ ra một bé trai bụ bẫm. Dê nằm xuống và đứa bé háu đói rúc vào bầu sữa dê bú lấy bú để. Bé bú xong, dê vừa quay lưng đi, lại có một đàn chim Quyên sà xuống. Từng con chim chấp chới cánh tha cỏ khô nhẹ nhàng đắp lại cho bé, chỉ chừa trống khuôn mặt đĩnh ngộ. Vô cùng kinh ngạc, người tiều phu tiến lại gần thì bé lại nhìn ông cười ngây thơ rất dễ thương.
Động lòng trước đứa trẻ bơ vơ, người tiều phu ôm về nuôi nấng và đặt tên là Kỳ Mạng. Cậu bé lớn lên trở thành một chàng trai khỏe mạnh và cũng theo nghề tiều phu như cha nuôi. Cứ sáng sớm, lúc trời chưa hừng đông chàng đã cùng cha vác búa đi vào rừng sâu cần mẫn đốn củi, chiều chàng vác củi về đổi lấy gạo và cá thịt để hai cha con cùng ăn. Hai cha con đùm bọc lẫn nhau sống qua ngày tháng.
Một hôm, Kỳ Mạng một mình đi vào sâu trong rừng để kiếm một cây cao đem về sửa căn nhà sàn của hai cha con. Đi mãi, đi mãi mới tìm được một cây vừa ý. Cây thẳng và cao tít tưởng chừng như đụng mây. Chàng hớn hở ra sức chặt. Chặt từ sáng đến tối thì gần xong. Chàng quay về nhà định bụng ngày mai sẽ trở lại sớm để đốn hạ tiếp. Nhưng kỳ lạ thay, sáng hôm sau, khi chàng trở lại, cây đã liền da thịt như chưa hề có một nhát búa nào.
Kỳ Mạng lại hì hục đốn đẵn. Làm cật lực đến tối vẫn chưa xong. Sáng hôm sau chàng trở lại, cây vẫn nguyên vẹn như chưa hề bị đụng tới. Vẫn không nản chí, chàng bắt tay lại từ đầu và đến tối thì nghỉ. Nhưng lần này chàng không quay về nhà mà trèo lên cây bên cạnh để qua đêm và cũng để tìm hiểu xem vì sao cây lại tự liền lại như vậy.
Đến nửa đêm bỗng một ông già chống gậy, tóc bạc phơ xuất hiện. Ông cầm gậy chỉ vào cây, đi một vòng xung quanh, tự nhiên những vết chặt biến mất. Cây lại như cũ. Kỳ Mạng vội vàng tụt xuống kêu lên:
- Ông ơi, công lao ba ngày khó nhọc của cháu mà ông lại nỡ phá đi?
- Ta là thần Thái Bạch đây, ta không muốn ngươi chặt cây bừa bãi như thế!
- Nhưng thế thì cháu phải sinh sống làm sao?
- Đây, ta cho ngươi cây gậy thần cứu nhân độ thế.
Nói đoạn, thần Thái Bạch đưa cho chàng cây gậy phép và biến mất. Từ đó chàng dùng gậy thần cứu giúp những người bệnh hoạn, ốm đau. Khi lành bệnh, tuy họ không trả công cho chàng bằng những mẩu xà cừ lấp lánh nhưng thường mang đến khi gùi gạo, khi con gà rừng. Nhờ thế cuộc sống của hai cha con cũng dễ chịu hơn.
Một hôm, Kỳ Mạng đi chơi ven sông, thấy xác một con rắn nước bị trẻ con đập chết. Thương tình, chàng dùng gậy cứu sống rắn và thả xuống nước. Rắn ngước mắt nhìn Kỳ Mạng rồi lặn xuống sông biến mất. Mấy hôm
sau có một chàng trai tuấn tú đem nhiều châu báu đến tặng Kỳ Mạng và tự xưng là Tiểu Long hầu, cháu nối đời của Lạc Long Quân tức là hậu duệ(*) của một trong 50 người con trai ở lại động nước với Lạc Long Quân xưa kia.
- Hậu duệ là con hoặc cháu thuộc thế hệ sau.
Tiểu Long hầu chuyển lời tạ ơn của cha mẹ đến Kỳ Mạng vàng mời chàng xuống thủy cung chơi. Kỳ Mạng thốt lên:
- Ta là người phàm, làm sao đi xuống nước được?
- Xin ân nhân đừng ngại. Đây là chiếc văn tê, nó sẽ giúp người đi dưới nước cũng như đi trên cạn vậy.
Nói đoạn Tiểu Long hầu đưa cho Kỳ Mạng một chiếc sừng tê giác đen bóng.
Chiếc văn tê quả thật linh nghiệm. Kỳ Mạng đi đến đâu, nước rẽ hai bên dẫn bước chàng đi. Chẳng mấy chốc lâu đài cung điện nguy nga đã hiện ra. Đó là thủy cung. Tại đây, Kỳ Mạng được Long Vương tiếp đãi nồng hậu, cho bày yến tiệc linh đình để chàng thưởng thức các món ngon vật lạ của chốn thủy cung. Tiểu Long hầu còn dẫn chàng đi thăm thú các nơi trong vương quốc dưới nước này.
Cảnh vật dưới bể quả là kỳ diệu làm cho Kỳ Mạng hết sức thích thú. Cũng đồi, cũng núi, cũng hang động nhưng tất cả đều lung linh ánh nước cầu vồng. Từng đàn cá đủ màu sắc, đủ hình thù lạ lùng lượn lập lờ xuyên qua các rừng san hô đỏ au mênh mông. Những chùm rong biển uốn éo theo làn nước tưởng chừng như các tiên nữ đang múa khúc nghê thường. Đâu đây văng vẳng tiếng ca trong trẻo của các nàng mỹ nhân ngư. Cuộc sống dưới nước quả là mộng ảo.
Khi từ giã thủy cung, Kỳ Mạng được Long Vương tặng cho một cuốn sách ước để đền ơn. Sách ước có bìa bằng mu rùa, trong chỉ có ba tờ bằng da cá. Tờ thứ nhất là Hỏa, tờ thứ hai là Mộc, tờ thứ ba là Kim. Còn một tờ thứ tư nữa. Đó là tờ Thủy nhưng Long Vương giữ lại vì tờ Thủy là quyền lực đối với nước. Mà nước là vương quốc của Long Vương, không thể lọt vào tay người phàm được.
Kỳ Mạng mở sách xem linh nghiệm ra sao. Chàng để tay lên trang Hỏa, sấm sét nổi lên, để tay lên trang Mộc, rừng cây di chuyển, để tay lên trang Kim, đồng sắt xuất hiện. Kỳ Mạng mừng rỡ vô cùng, từ tạ Long Vương cùng Tiểu Long hầu trở về.
Từ khi có cuốn sách ước, Kỳ Mạng không ở một chỗ nữa, chàng từ biệt cha đi đây đi đó để giúp đời.
Sau một thời gian lang thang khắp nơi, một hôm Kỳ Mạng đi qua cửa bể Thần Phù, theo dòng sông đi ngược lên một ngọn núi. Núi cao gồm có ba ngọn đứng xếp hàng, cho nên núi có tên là Ba Vì (Sơn Tây). Hòn núi ở giữa có đỉnh tròn như cái tàn, vì thế có tên là Tản Viên (do dân chúng gọi trại chữ “tàn” ra chữ “tản”). Thấy thế núi hùng vĩ, Kỳ Mạng quyết định dừng chân ở hẳn tại đây.
Với cuốn sách ước, Kỳ Mạng dựng lên lâu đài, dinh thự, lập cơ ngơi nơi cảnh non xanh. Kỳ Mạng thường xuống núi cứu giúp người nghèo, kẻ bệnh hoạn, nên được dân chúng gọi là thần Tản Viên hay là Sơn Tinh. Từ đó, mỗi khi có việc khó khăn, dân chúng thường lên núi khấn vái cầu thần xuống giúp đỡ.
Sau khi an cư, được tin vua Hùng kén rể, lại biết rằng Ngọc Hoa con gái vua Hùng là người xinh đẹp nết na, Sơn Tinh rất ưng ý liền xuống núi đem trầu cau đến xin cầu hôn.
Còn chàng kia là Thủy Tinh, hoàng tử yêu của Long Vương, vốn là người được ngài trao cho tờ Thủy để nắm mọi quyền lực ở dưới nước với ý định sẽ kế vị ngài. Bởi vậy, Thủy Tinh cũng là người kỳ tài, hô phong hoán vũ không ai bằng. Tuy biết Sơn Tinh được cha mình trọng đãi nhưng vốn hiếu thắng chàng không hề có ý định nhường bước.
Đứng trước hai chàng trai dũng mãnh, vua Hùng không biết lựa chọn cách nào. Vua than lên:
- Ta có một gái há dễ được hai rể hiền?
Sau khi bàn bạc với các Lạc hầu, vua bèn cho hai bên so tài.
Sơn Tinh chỉ tay về đằng đông, lúa xanh mọc lên, chỉ tay về đằng tây, núi cao sụp đổ. Chàng ra vào trong đá như chỗ không người khiến mọi người vô cùng thán phục.
Riêng nàng Ngọc Hoa nãy giờ e lệ đứng nép bên trong đã thầm cảm mến chàng Sơn Tinh uy nghi dũng mãnh. Nàng thầm mong cho chàng thắng cuộc.
Nhưng Thủy Tinh đâu có kém gì. Chàng gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa tới; há miệng phun nước thành sông dậy sóng. Tài năng của chàng không kém gì Sơn Tinh, nhưng lại khiến mọi người vô cùng sợ hãi.
Thấy cả hai ngang sức ngang tài, vua Hùng càng bối rối.
Thực lòng khi thấy Thủy Tinh có vẻ dữ dằn, ngài có nghiêng về phía Sơn Tinh nhiều hơn. Nhưng luật nước không nể tình riêng, vua đành quyết định:
- Hai ngươi hãy về sắm đồ sính lễ. Phải có đủ một trăm vần cơm nếp, hai trăm nẹp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Ai đến trước nhất trong ngày mai, ta sẽ gả Mỵ nương cho.
Hai chàng trai vội vã quay về sửa soạn. Vốn sống ở rừng núi, Sơn Tinh kiếm thú quí dễ như trở bàn tay. Chàng cùng trai tráng trong vùng đeo tên đeo nỏ đốt đuốc đi săn. Trong khi ấy, các cô gái ở nhà xay lúa, giã gạo, nhóm bếp, nấu cơm, làm bánh tíu ta tíu tít. Quá nửa đêm, tất cả đã xong xuôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh ra đứng trên đỉnh núi Tản cao sừng sững nhìn về hướng mặt trời mọc chờ đợi. Tia nắng mặt trời đầu tiên vừa loáng trên mặt biển, chàng ngẩng đầu lên khấn xin thần Mặt Trời giúp đỡ, đoạn cưỡi ngựa chín hồng mao, dẫn voi chín ngà, gà chín cựa xuống núi. Theo sau là một trăm chàng trai mang trăm vần cơm nếp và một trăm cô gái bê hai trăm nẹp bánh chưng. Họ lũ lượt cùng đến ra mắt vua Hùng.
Nhà vua giữ lời hứa, nhận đồ sính lễ, ra lệnh cho Ngọc Hoa trang điểm để về nhà chồng. Tuy đã sẵn sàng, nhưng Ngọc Hoa còn quyến luyến vua cha, chưa nỡ rời xa. Vưa Hùng phải hối thúc, nàng mới nhỏ lệ bùi ngùi đi theo Sơn Tinh. Đến bến sông, họ xuống thuyền đi về phía núi Tản. Rồi chẳng mấy chốc họ đã khuất sau những áng mây bập bềnh trên đỉnh non cao.
Còn Thủy Tinh vốn người ở biển, chỉ có tôm cá rong rêu nên kiếm đồ sính lễ thật là vất vả. Dù có nhiều ốc xà cừ nhưng không thể đổi lấy các thứ cần thiết trong vòng có một đêm. Thủy Tinh đành phải đợi đến sáng hôm sau. Khi chàng đưa lễ vật đến thì Sơn Tinh đã đem nàng Ngọc Hoa rời cung từ lâu.