Tập 7: Nhụy Kiều Tướng Quân Bà Triệu
Sau khi cáo từ ra về, Triệu Quốc Đạt rất phân vân. Căm thù lũ giặc hèn hạ và độc ác lại hiểu rất rõ tính cách của em gái, ông biết em mình không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng nếu vậy thì phong trào khởi nghĩa vừa nhen nhúm sẽ gặp nguy hiểm. Không biết tính sao, ông bèn kể cho Thị Trinh nghe âm mưu hiểm độc của kẻ thù cũng như lời cầu hôn của viên Thái thú.
Quả nhiên khi vừa nghe ông nói xong, Nàng Trinh vụt đứng dậy khẳng khái đáp: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi giặc nước, giành lại giang san, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”.
Tình thế không thể trì hoãn lâu được, hai anh em Quốc Đạt và Thị Trinh, một mặt cho người đến gặp tên Thái thú khôn khéo từ chối cuộc hôn nhân, mặt khác gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa.
Thấy diệu kế không thành, tên Thái thú tức giận mật báo cho vợ Triệu Quốc Đạt tìm kế sách khác thu phục anh em họ Triệu. Người vợ lăng loàn ngầm viết thơ cho tên Thái thú hẹn y cho mời Quốc Đạt lên giữ chân, ở nhà mụ cùng tên em họ ngụy quan sẽ cho mai phục bắt Thị Trinh giải lên sau.
Nhận được thơ mời, Quốc Đạt ngại âm mưu hiểm độc của kẻ thù không muốn đi, nhưng người vợ làm bộ động viên ông đi để xin giảm sưu thuế, cống vật cho dân nhờ. Quốc Đạt lo lắng đem một số thân binh, giấu vũ khí để đề phòng bất trắc rồi ra đi.
Ở nhà mụ ta cho một số người thân tín mai phục rồi mời Thị Trinh đến. Nhưng, sự đời vỏ quít dầy gặp móng tay nhọn, Thị Trinh bắt được lá thư của người chị dâu gửi tên Thái thú, khám phá ra âm mưu hiểm độc. Bà cho người bắt trói hết bọn phục binh, ném lá thư ra và mắng nhiếc người chị dâu ăn ở hai lòng.
Người chị dâu lúc đầu xanh mặt lo sợ vì âm mưu bị bại lộ, nhưng sau liều mình hô bọn thân tín áp vào bắt giết Thị Trinh. Triệu Thị Trinh cùng các nghĩa sĩ múa kiếm giết sạch bọn bán nước.
Bà cho nghĩa quân cấp tốc đi gọi Quốc Đạt trở lại để tránh gian kế của địch và kể hết sự tình cho Quốc Đạt biết. Lúc bấy giờ quyết tâm khởi nghĩa của nghĩa quân và anh em họ Triệu dâng cao sôi sục.
Đêm ấy, dưới ánh đuốc sáng ngời, trong tiếng trống đồng, tiếng cồng vang dội vùng rừng núi Cửu Chân, trước mặt các tướng sĩ nghĩa quân, Triệu Quốc Đạt làm lễ tế cờ, tuyên cáo với trời đất. Bên cạnh ông, Triệu Thị Trinh “mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng…” uy nghi, đẹp như một thiên tướng giáng trần.
Tin khởi nghĩa nhanh chóng được các tráng sĩ phi ngựa báo với thủ lĩnh các bộ tộc. Khắp vùng rừng núi Cửu Chân, Giao Chỉ nhiều bộ tộc dẫn quân về hội nghĩa ở vùng núi Tùng.
Quân ta tiến công ồ ạt. Khắp các huyện thành của bọn quan đô hộ nhà Ngô đều bị quân ta tiêu diệt, lửa cháy ngút trời, thành quách bị san bằng. Quan quân Ngô lớp trốn chạy, lớp bị tiêu diệt.
Trong các trận quyết chiến đó, người ta thấy Bà Triệu mặc áo giáp, cưỡi trên mình voi trắng một ngà, luôn đi đầu chỉ huy và xông pha vào chốn hiểm nguy nhất.
Nhân dân khắp nơi rất sung sướng, vui mừng trước những tin thắng trận dồn dập của nghĩa quân Bà Triệu. Họ hăng hái đốc thúc chồng con tòng quân và tiếp tế lương thực, thực phẩm cho nghĩa quân:
“Ru con con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi. Muốn coi lên núi mà coi,
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.”
Bọn quan binh nhà Ngô khiếp sợ trước sự lớn mạnh như vũ bão của nghĩa quân. Chúng bàn mưu tính kế để đối phó. Được biết Triệu Quốc Đạt sắp kéo quân qua một hẻm núi để đi đánh một huyện thành xa, Thái thú và Đô úy Cửu Chân đích thân dẫn quân đi mai phục. Quốc Đạt bị lọt vào giữa vòng vây và trúng nhiều mũi tên, nhưng ông vẫn anh dũng chiến đấu tới hơi thở cuối cùng rồi gục chết trên mình ngựa.
Nghe tin anh tử trận vì gian kế của giặc, Triệu Thị Trinh đau thương và phẫn uất. Bà cho các tướng sĩ đều để tang, rồi lên ngồi chủ tướng, thề quyết giết giặc để trả thù cho anh.
Giữa đêm bà dẫn quân âm thầm đi bao vây quận trị Cửu Chân. Đây là trung tâm đầu não của bọn đô hộ nên chúng xây dựng hào cao, lũy dầy để bảo vệ. Sáng ra, bọn Đô úy, Thái thú kinh sợ khi thấy bốn bề quân binh bao phủ, còn Bà Triệu tướng thì uy nghi, lẫm liệt trên con voi trắng.
Nghĩa quân giao tranh với quân Ngô cả ngày, đến chiều thì san bằng được thành lũy, giết chết quân Ngô vô số. Trong khói lửa mịt mù của chiến trận, quân ta bắt được hai tên Thái thú và Đô úy là những tên đã phục kích giết chết Triệu Quốc Đạt.
Bà Triệu lập bàn thờ rồi sai người chặt đầu chúng để tế Triệu Quốc Đạt và các chiến sĩ đã bỏ mình vì đất nước. Nhờ đó thanh thế nghĩa quân ngày càng lan rộng khắp Cửu Chân, Giao Chỉ. Người theo phục Bà Triệu mỗi ngày một đông.
Bình định xong Cửu Chân, Bà Triệu kéo đại quân tiến đánh Giao Chỉ. Đại quân Bà Triệu tiến đến đâu, các Hào trưởng địa phương ra dâng lễ vật xin qui thuận đến đấy. Còn các huyện thành, quan lính Ngô lớp bỏ trốn, lớp xin hàng, thành nào chống cự đều bị tiêu diệt.
Cả một vùng Giao Châu rúng động. Thứ sử Giao Châu mất tích. Quân Ngô rất sợ Bà Triệu, chúng kháo nhau “Đương đầu với hổ dữ còn dễ hơn đối mặt với vua bà”(*). Chúng còn gọi Bà một cách tôn kính là Nhụy Kiều tướng quân (vị tướng yêu kiều).
* Nguyên văn: Hoành qua đương hổ dị,
Đối diện Bà Vương nan.
Tin Giao Châu đã bị quân khởi nghĩa của Bà Triệu thu phục bay về triều đình nhà Ngô. Năm 248, Ngô triều lo sợ phải cử một tên tướng là Lục Dận làm Thứ sử Giao Châu, lại phong là An Nam Hiệu úy đem quân sang lập lại nền đô hộ.
Lục Dận là cháu của danh tướng Lục Tốn, là một người có nhiều mưu mô hiểm độc và từng trải kinh nghiệm chiến trường. Hắn vạch ra một kế hoạch nham hiểm quyết triệt phá nghĩa quân, khuất phục nhân dân các quận Giao Chỉ, Cửu Chân.
Đoàn quân Lục Dận đi tới đâu, đều phô trương thanh thế để uy hiếp, đồng thời dừng mưu mô để dụ dỗ, dùng của cải, tiền bạc để mua chuộc các Hào trưởng địa phương. Nhiều người đã chịu khuất phục quân Ngô.
Lục Dận còn cho nhiều toán lính nhỏ luồn sâu vào các vùng rừng núi, bỏ thuốc độc vào các con sông, suối, nguồn nước làm cho quân ta bị ốm đau bệnh tật.
Tên tướng nham hiểm này, sau khi dọ thám đã cho quân đốt kho lương thảo của nghĩa quân. Đồng thời, chúng cho những cánh quân chặn tất cả con đường tiếp tế.
Giữa lúc quân đau lương thiếu. Lục Dận lại dồn sức đánh mạnh vào, vì vậy dù nghĩa quân có chống cự mãnh liệt nhưng cuối cùng phòng tuyến bị vỡ, Bà Triệu phải ra lệnh rút lui.
Trong cuộc quyết chiến sanh tử này, các vị tướng quân họ Lý theo Bà Triệu từ những ngày đầu khởi nghĩa đã dũng cảm chiến đấu. Tuy bị nhiều thương tích và mang nhiều mũi tên trên người, nhưng các tướng quân họ Lý đã đẩy lùi một cánh quân địch, bảo vệ nghĩa quân rút lui an toàn, trước khi kiệt sức ngã xuống trên chiến trường.
Trong một trận khác giao tranh trên sông nước, vị tướng quân lấy trộm ngựa chiến của giặc về với nghĩa quân đã bị quân Ngô chăng dây phục kích khiến ông tử trận. Trước những cái chết oai hùng của các tướng sĩ, Bà Triệu vừa tự hào vừa vô cùng đau đớn.
Địch tập trung quân đánh nhiều trận, nhưng vẫn không thắng nổi nghĩa quân Bà Triệu. Bà lui về núi Tùng cố thủ bị quân lính của Lục Dận vây khốn rất gắt gao. Lúc bấy giờ tình cảnh của nghĩa quân thật bi đát, quân đau, lương cạn dần, nhưng mọi người vẫn thề sống chết với Bà Triệu.
Biết thế đã cùng, lực đã tận, muốn tránh cho nghĩa binh cảnh lầm than và danh dự mình không bị ô nhục, Bà Triệu lên đỉnh núi Tùng nhìn quê hương lần cuối rồi rút kiếm tự vẫn. Tương truyền bấy giờ là vào ngày 21 tháng 2 năm Mậu Thìn (248), lúc Bà mới 20 tuổi xuân và đã đánh cho quân Ngô hơn 30 trận oanh liệt.
Cụ già sơn cước, người nài voi trung thành qua bao chiến trận của Bà Triệu, vô cùng thương tiếc, khóc than rồi gieo mình xuống vực sâu.
Con voi trắng một ngà cảm ứng điều trọng đại, ứa hai hàng nước mắt, rống lên một tiếng dài đau thương vang dội núi rừng rồi chạy mất hút trong rừng sâu và không bao giờ xuất hiện ra nữa.
Nhân dân ta vô cùng yêu mến, tiếc thương Bà Triệu, người nữ anh hùng đã hiến cả tuổi thanh xuân cho đất nước. Mọi người lập mộ xây lăng cho bà ở chân núi Tùng, quanh năm lễ bái khói hương. Hằng năm vào ngày 21 tháng 2 âm lịch là ngày Hội đền của Bà, nhân dân tưởng nhớ về lễ bái rất đông.
PHỤ LỤC
NHỮNG BÀI THƠ CỦA ĐỜI SAU VIẾT VỀ BÀ TRIỆU
BÀ TRIỆU
Tướng lạ tài cao gái khác thường, Sau Hai Trưng nữ có Bà Vương. Cửu Chân trăm trận an hơn sắt, Lục Dận mười phen mắt đã vàng. Toan lấy yếm khăn đùm vũ trụ,
Quản gì son phấn nhuộm tang thương. Kìa gương nhi nữ anh hùng đấy.
Miễu vũ ngàn thu ngút khói hương.
(Khuyết danh, trích Anh thư nước Việt: từ lập quốc đến hiện đại, trang 25)
TRIỆU ẨU
Cao một trượng cả mười vừng
Bỏ tóc ngang lưng, vú chấm sừng. Hợp chúng rừng xanh, oai náo nức, Cưỡi đầu voi trắng, tiếng vang lừng. Mác dài trỏ vẫy tan đàn giặc,
Ngôi cả lăm le học họ Trưng.
Ví có anh hùng duyên định mấy, Thời chi Đông Hán dám lung lăng.
(Hồng Đức… tờ 76) (trích tạp chí Tri Tân, trang 167)
Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.
Túi gấm cho lẫn túi hồng,
Têm trầu cánh kiến cho chồng ra quân.
(Thơ ca dân gian)
LỊCH SỬ VIỆT NAM BẰNG TRANH TẬP 7
NHỤY KIỀU TƯỚNG QUÂN BÀ TRIỆU
Trần Bạch Đằng chủ biên
Đinh Văn Liên biên soạn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN MINH NHỰT
Chịu trách nhiệm nội dung: NGUYỄN THẾ TRUẬT
Biên tập: CÚC HƯƠNG – LIÊN HƯƠNG
Biên tập tái bản: TÚ UYÊN Bìa: BIÊN THÙY
Sửa bản in: ĐÌNH QUÂN Trình bày: VŨ PHƯỢNG