Tập 8: Nước Vạn Xuân

Thấy thuộc quốc của mình trở nên một vương quốc độc lập và đang xây dựng cuộc sống riêng, vua quan nhà Lương không thể nào chấp nhận được. Cùng năm với Lý Nam Đế lên ngôi vua, nhà Lương sai Tả vệ tướng quân là Lan Khâm kéo quân sang đánh. Nhưng Lan Khâm chỉ mới kéo quân qua khỏi núi Ngũ Lĩnh thì nhuốm bệnh mà chết. Quân sĩ lại lục tục quay trở về.

Tuy thế, nhà Lương vẫn không từ bỏ ý đồ xâm lược. Năm sau, vào tháng 5 vua nhà Lương lại phong cho một thuộc tướng là Dương Phiêu làm Thứ sử Giao châu, bên cạnh Dương Phiêu là danh tướng Trần Bá Tiên làm Tư mã(*). Vua Lương còn sai một thứ sử khác là Tiêu Bột hợp quân cùng Dương Phiêu.

  • Trần Bá Tiên sau này cướp ngôi nhà Lương và trở thành vua Cao Tổ của nhà Trần Trung Quốc.

Tiêu Bột biết tướng sĩ của mình sợ đi xa, nên lần lữa giữ chân Dương Phiêu lại. Trần Bá Tiên là người hiếu chiến luôn luôn thúc dục Dương Phiêu tiến quân. Bá Tiên nói rằng:

  • Quan Thứ sử Tiêu Bột muốn lẩn lút tạm yên là không muốn ngó việc lớn ở trước mắt. Còn như túc hạ vâng lời vua đi đánh kẻ có tội (tức Lý Nam Đế), há dùng dằng không tiến, lệnh vua ban xuống, sống chết không biết ra sao. Lại có tội để cho quân giặc lớn thêm và quân mình nản chí ư?

Thúc dục xong, Trần Bá Tiên trở về trại của mình hạ lệnh xuất quân, không thèm đợi lệnh của Dương Phiêu, Dương Phiêu đành phải nghe theo. Hắn phong cho Bá Tiên làm tiên phong và chia quân làm hai đạo thủy, bộ cùng phối hợp tiến vào đất nước Vạn Xuân non trẻ. Quân của chúng đi đến đâu cướp bóc đến đấy. Chúng đốt nhà, chiếm trâu, bò, gà của dân chúng làm lương ăn.

Lý Nam Đế vội vàng đem ba vạn quân ra chống giặc ở vùng Lục Đầu (Hải Dương), nhưng không cản được sức tiến công ào ạt của đại quân Lương. Nhà vua đành phải cho quân lui về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Quân của nhà vua tuy dũng cảm chiến đấu nhưng số lợng ít ỏi, chỉ co cụm cố thủ trong thành. Còn thành thì lại rất sơ sài, chỉ bằng tre gỗ và đất đắp qua loa mà quân Lương lại công thành như vũ bão.

Hai vị tướng trẻ Trình Đô và Tam Cô đem quân chận địch trên sông Tô Lịch. Những trận thủy chiến ác liệt xảy ra. Vào mùa hạ năm Ất Sửu (545), quân Lương dựa thế nước dâng cao, bất ngờ tấn công thủy binh của hai tướng. Quân sĩ hy sinh không còn ai và lại bị vây khốn. Để không sa vào tay kẻ thù, Trình Đô và Tam Cô để nguyên áo giáp, nhảy xuống sông trầm mình (ngày 15 tháng 6 âm lịch). Người đời sau tôn hai vị tướng làm Hộ quốc và thờ ở đình Xuân Đề.

Mặt trận trên bờ cũng không kém phần ác liệt. Lão tướng Phạm Tu ra sức chỉ huy quân lính chống cự trong làn tên mũi đạn, cố giữ từng đoạn thành mong manh. Nhưng rồi, quân Vạn Xuân không giữ được lâu. Thành vỡ, quân Lương ùa vào chém giết tơi bời. Trước bầy lang sói đông đúc, lão tướng Phạm Tu ngã gục, thân mình bị hàng chục mũi giáo xuyên qua. Đó là ngày 20 tháng Bảy năm Ất Sửu (545). Người đời sau thờ lão tướng tại đền Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Nội.

Còn lại Tả tướng quân Triệu Quang Phục cùng cha là Triệu Túc bảo vệ được Lý Nam Đế thoát khỏi đám loạn quân. Vua cùng các tướng chạy ngược sông Hồng đến thành Gia Ninh(*). Quân Lương đuổi theo áp sát và tiến hành vây thành. Đến đầu năm 546, thành Gia Ninh thất thủ. Quân Lương cho đóng đồn ở cửa sông để bảo vệ thành.

  • Thành Gia Ninh nguyên là đất huyện Mê Linh, đến đời nhà Ngô cai trị thì đất tên là Gia Ninh, nay là thành phố Việt Trì, Phú Thọ.

Lý Nam Đế cùng các tướng sĩ chạy vào miền núi rừng Vĩnh Phú. Tại đây, nhà vua không những được sự ủng hộ của dân chúng người Việt mà còn cả dân của các bộ tộc ít người nữa. Vì thế, lực lượng của nhà vua tăng lên đáng kể. Quân số lên tới vài vạn người. Giữa năm 546, nhà vua đem hai vạn quân ra thao luyện ở hồ Điển Triệt.

Hồ Điển Triệt còn có tên Nôm là đầm Miêng, nay thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, cách Bạch Hạc khoảng 15km. Đầm nằm bên bờ sông Lô, ba mặt Tây, Nam, Đông được các dải đồi cao che phủ, chỉ có mặt Bắc là một con ngòi chảy ngang qua cánh đồng trũng thông với sông Lô. Đó là con đường độc đạo đi vào hồ.

Hàng ngày Lý Nam Đế lên quả đồi cao nhất để quan sát địch tình ở cửa sông Lô. Quả đồi ấy sau được mang tên là đồi Vua Ngự. Nhà vua đôn đốc quân lính lên rừng đốn cây đẽo thuyền độc mộc và cho quân tập trận thường xuyên. Số thuyền đóng được ngày càng nhiều, mỗi khi thao luyện, trên mặt hồ san sát đầy chật thuyền bè.

Trần Bá Tiên dò biết lực lượng của Lý Nam Đế đang hồi phục, vội vã cho quân tấn công ngay để ngăn chặn sức lớn mạnh của nghĩa quân. Hắn cho quân từ thành Gia Ninh kéo ra, ngược dòng sông Lô định xâm nhập vào hồ Điển Triệt nhưng quân Vạn Xuân cản phá kịch liệt. Trần Bá Tiên phải cho quân dừng ở cửa hồ, đóng trại ngay trên cánh đồng trũng.

Quân Lương mỏi mệt, các tướng thì chán nản nhưng Trần Bá Tiên là một tay đa mưu túc trí. Hắn hăng hái động viên:

– Quân ta đã mỏi mệt mà không có cứu viện, nay ta lại vào chốn tâm phúc người ta, nếu đánh mà không được, thì không có đường sống mà về! Nhưng quân họ lâu nay thua luôn, nhân tính chưa bền, chính là lúc ta phải đem một trăm phần chết cố sức đánh lấy; chứ vô cố mà đình lại thì hỏng việc mất.

Các tướng nghe nói đều nín lặng.

Đêm hôm ấy mưa to gió lớn, nước sông dâng lên cao đến sáu bảy thước, ào ạt tuôn trào vào hồ Điển Triệt. Bá Tiên đem quân bản bộ theo dòng nước xông vào trước còn quân thì đánh trống ầm ầm hòa cùng sấm sét mà tiến vào sau. Quân của Lý Nam Đế bị đánh úp lúc đang phải chống cự với cơn lũ nên thua to. Nhà vua phải dẫn tàn quân mở đường máu vượt đồi thoát ra ngoài.

Một toán quân Vạn Xuân khác do Lý Thiên Bảo, anh của Lý Nam Đế cùng thuộc tướng là Lý Phật Tử phải chạy dạt về vùng Ái châu (Thanh Hóa) còn Lý Nam Đế rút về động Khuất Lão(*) Nhà vua muốn áp dụng kế lâu dài nên giao binh quyền lại cho Triệu Quang Phục lo chống đỡ với quân Lương bên ngoài còn mình thì thân hành khôi phục lực lượng bên trong.

  • Động Khuất Lão còn gọi là động Khuất Liên, là tên một khu đồi hiện nằm bên hữu ngạn sông Hồng, nay thuộc xã Văn Lượng, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.

Trong khi ấy, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử đem quân vây thành Ái châu nhưng bị Bá Tiên đánh bại, phải chạy về động Dã Năng (vùng thượng du Thanh Hóa, nơi giáp với Lào). Lý Thiên Bảo tự xưng là Đào Lang Vương. Triệu Quang Phục cũng đánh nhau mấy lần với Bá Tiên nhưng đều thất bại. Thấy rằng cứ cố đánh thì càng bị tiêu hao lực lượng, Triệu Quang Phục bèn đổi chiến lược, lui quân về đóng ở đầm Dạ Trạch (547).

Tương truyền rằng đầm Dạ Trạch (Hải Hưng) có xuất xứ từ cuộc tình giữa Tiên Dung và Chử Đồng Tử. Tiên Dung là cô gái cành vàng lá ngọc, con gái của Hùng Vương, trong một chuyến du ngoạn xa kinh đô đã tự ý kết hôn cùng Chử Đồng Tử, một chàng trai nghèo khó. Hai người xây dựng tổ ấm bên bến sông. Vua Hùng thấy con gái vượt quyền nên rất tức giận, cho quân đi đánh.

Quan quân chưa kịp ra tay thì một đêm gió bão nổi lên, cuốn nhà cửa, lâu đài của Tiên Dung về trời. Sáng ra chỉ thấy một bãi đầm lớn nước trắng xóa. Ở giữa đầm còn sót lại cái nền nhà cũ của hai vợ chồng. Vì thế dân chúng gọi đầm ấy là Nhất Dạ Trạch nghĩa là Đầm Một Đêm, còn bãi đất nổi là bãi Tự Nhiên.

Trên thực tế, đây là một vùng đầm lầy rất rộng nằm ven sông Hồng, chu vi không biết là bao nhiêu dặm, cỏ cây rậm rạp, chỗ dày chỗ thưa. Giữa đầm là một bãi đất nổi lên có thể ở được, bốn bề quanh bãi là bùn lầy lấm láp, người ngựa khó đi, chỉ những người quen thuộc địa hình mới đi được. Họ phải dùng thuyền độc mộc nhỏ, lấy sào đẩy trên cỏ nước mà di chuyển.

Triệu Quang Phục đã quen đường lối, đem hơn hai vạn người đóng đồn ở giữa bãi đầm. Ông ra hiệu lệnh cho quân lính phải hoàn toàn giữ bí mật cho căn cứ địa. Ban ngày mọi người im hơi lặng tiếng, không nấu nướng, không sản xuất. Ban đêm lại sinh hoạt như ban ngày. Tốp ở lại phục vụ sản xuất, tốp ra đi thì lấy thuyền độc mộc tìm quân Lương mà đánh úp, cướp lấy lương ăn.

Sách sử cũ gọi cách đánh ấy là “kế trì cửu” nghĩa là đánh lâu dài làm tiêu hao lực lượng của địch quân, tập kích lấy lương của địch để nuôi quân mình. Quân Lương nhiều lần cố sức đánh vào vùng Dạ Trạch nhưng đều thất bại. Chúng chưa vào sâu được bao nhiêu là đã bị hoặc sa lầy, rắn cắn hoặc lạc đường mà phải thối lui.

Đánh nhau như vậy trong ba bốn năm mà hai bên đối thủ chưa bao giờ thấy mặt nhau. Trần Bá Tiên bứt đầu bứt tai than:

– Ngày xưa đây là Đầm Một Đêm mà bay về trời, nay cũng Đầm Một Đêm nhưng chết người.

Trong khi ấy ở động Khuất Lão, Lý Nam Đế sau nhiều năm tháng lao lực bị mù mắt rồi bệnh mà chết (548).

Để tưởng nhớ công lao của người anh hùng dân tộc, nhân dân khắp nơi lập đền thờ ông như thờ vua. Còn các làng ở cửa sông Đáy thì thờ ông làm Thành Hoàng.

Đặc biệt hai làng Lưu Xá và Giang Xá, nơi đặt bản doanh của Lý Bí trước khi tấn công thành Long Biên, còn lưu lại dấu ấn của cuộc kháng chiến. Gò Mũi Mác, gò Trống Khẩu vẫn còn đấy. Dân làng vẫn còn kiêng cữ không dám gọi tên ông. Bí được gọi trại thành bầu.

Còn làng Giang Xá, vốn được Lý Nam Đế phong là Thanh Mộc Ấp, xây đền thờ ông ngay trên mảnh đất chùa Linh Bảo xưa. Hàng năm, tại đây dân làng tổ chức lễ hội vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch để kỷ niệm ngày thành lập nước Vạn Xuân. Các ngày hưng binh, ngày sinh và ngày mất của Lý Nam Đế cũng được dân làng làm lễ.

Đền thờ Lý Nam Đế ở Trạm Trôi là một công trình kiến trúc tinh vi và cổ kính. Nghệ nhân đã tạo nên những đường nét mềm mại, uyển chuyển. Những hình tượng long, lân, quy, phụng được trang trí trên các mái, cột, hòa điệu cùng khung cảnh không gian cây cao bóng mát, đã tạo cho nơi thờ cúng thiêng liêng một vẻ u nhã đặc biệt. Vì giá trị nghệ thuật cùng giá trị lịch sử, đền đã được xếp hạng là di tích lịch sử và văn hóa vào năm 1989.

Cuốn thư đền thờ Lý Nam Đế (Giang Xá)
Ảnh: Đức Hòa

Bàn thờ Lý Nam Đế (Giang Xá)

Một câu ngạn ngữ truyền tụng trong dân gian nói lên tài trí của Lý Bí từ một người dân thường, chuyển được thời cơ đưa đất nước đi trên con đường tự chủ trong một thời gian khá dài:

“Nước lã mà vã nên hồ

Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan”.

Tuy nhiên, cả nước vẫn chưa có một ngày lễ để tưởng nhớ đến người anh hùng này.

Nghe tin Lý Nam Đế từ trần, Triệu Quang Phục cho làm lễ tưởng niệm nhớ ơn vị chủ hướng, người anh hùng. Sau đó để tập trung lòng người, Triệu Quang Phục tự xưng là Triệu Việt Vương

(549) còn dân chúng thì tôn gọi ông là Dạ Trạch Vương (vua Đầm Đêm). Từ đấy lòng dân về được một mối, khắp nơi hào kiệt kéo về giúp Triệu Việt Vương. Trong số ấy có hai anh em Trương Hống và Trương Hát.

Hai anh em họ Trương giúp Triệu Quang Phục đánh úp mấy trận lớn làm cho uy danh của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh. Trần Bá Tiên đành tung thám sát đi dò thám địa hình của đầm Dạ Trạch. Thấy thế sông nước quá hiểm trở, Bá Tiên hiểu rằng không thể ngày một ngày hai mà đánh lấy được. Y quyết định dùng kế lâu dài để diệt, cho triệt hạ mọi khu dân cư chung quanh đầm Dạ Trạch đồng thời tổ chức một cuộc vây lớn để tuyệt lương thực của nghĩa quân.

Những tưởng kế hoạch thâm độc này có thể làm cho nghĩa quân khốn đốn, nhưng không ngờ thời gian ấy, nhà Lương ở Trung Quốc đang gặp loạn Hầu Cảnh. Loạn này rất lớn, đánh phá đến tận kinh đô, giết chết hàng loạt quý tộc nhà Lương. Vua nhà Lương phải vời Bá Tiên về đánh dẹp. Bá Tiên giao quyền lại cho tỳ tướng là Dương Sàn rồi trở về nước. Y được phong lên làm Thừa tướng, nhưng đến năm 557 thì cướp ngôi nhà Lương.