Tập 1: Người cổ Việt Nam
Loài người từ đâu sinh ra? Đây là một câu hỏi lớn được đặt ra cho mọi thời đại và với mọi lớp người. Từ thời cổ đại cho đến ngày nay, nhiều huyền thoại và nhiều giả thuyết của các nhà khoa học lý giải khác nhau về vấn đề này.
Với huyền thoại Ai Cập thì thần Hanuma đã dùng đất sét tạo thành con người trên bàn xoay đồ gốm. Con người đầu tiên này được thần Hanuma trao cho một linh hồn và bắt đầu sinh sôi nảy nở ở khắp bốn phương cho đến ngày nay.
Kinh thánh của đạo Thiên Chúa bảo Đức Chúa trời đã dùng đất sét để nặn thành người đàn ông và lấy xương sườn của người đàn ông để tạo ra người đàn bà. Từ khi nghe theo lời dụ dỗ của rắn thần ăn trái cấm, biết tình yêu vợ chồng, họ đã rời khỏi vườn địa đàng và tạo ra thế giới loài người muôn hình muôn vẻ cho đến ngày nay.
Theo sách Trang Tử của nước Trung Hoa thời cổ thì có loài sâu rễ tre sinh ra loài báo, báo sinh ra ngựa và ngựa sinh ra người.
Huyền thoại Trung Hoa lại cho rằng bà Nữ Oa đã dùng bùn vàng nặn ra con người và thổi vào đó sự sống. Từ đó con người bắt đầu sinh con đẻ cái, nhiều dần cho đến ngày nay.
Có học giả cổ Hy Lạp cho rằng con người sinh ra từ loài cá. Loài cá ở dưới biển thở bằng mang, bơi bằng vây, lên bờ biến đổi mang thành phổi, các vây trở thành bốn chân như cá sấu. Rồi trải qua hàng triệu năm, loài người bò sát đó bắt đầu đứng thẳng, đuôi dần dần rụng đi, hai chân trước trở thành hai tay để hái trái và sử dụng công cụ.
Còn các nhà khoa học đã nghiên cứu trên nhiều lãnh vực: địa chất, khảo cổ, sinh học…, trong đó nổi bật là Charles Darwin với Thuyết tiến hóa đã xác định tổ tiên loài người là từ một loài vượn người xuất hiện cách nay từ 3 tới 4 triệu năm. Do những biến đổi trên bề mặt trái đất lúc đó: nhiệt độ lạnh dần, rừng cây thu hẹp lại… trong khi các động vật khác kể cả loài khỉ họ hàng, có loài bị tiêu diệt, có loài bỏ đi nơi khác, thì loài vượn tổ tiên của loài người đã ở lại, rời ngọn cây cao xuống đất, tập đi bằng hai chân để hai tay tìm kiếm thức ăn. Đó là điều khiến loài vượn này khác với giống khỉ thông thường tuy hình dạng bên ngoài còn hoàn toàn giống khỉ.
Tiến hóa thêm một bước, người vượn đã chuyển từ ăn rau quả sang biết ăn thịt, thường xuyên đi bằng hai chân và sử dụng công cụ đá. Những hòn đá được ghè đẽo thô sơ để chặt, đập các thứ hái lượm hoặc săn bắt được ấy chính là những công cụ lao động đầu tiên và cũng là những vũ khí đầu tiên do con người chế tạo. Người tiền sử thời này còn có tên là Người khéo léo (Homo Habilis).
Từ hai triệu năm tới mười vạn năm cách nay là Người đứng thẳng (Homo Erectus) gần giống con người hiện nay và đặc biệt đã biết dùng lửa. Có thể họ đã tìm ra lửa từ những đám cháy rừng rồi tìm cách giữ để sưởi ấm, nấu chín thức ăn, xua đuổi thú dữ… Việc tìm ra lửa đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình tiến hóa từ vượn thành người. Không một loài vật nào, kể cả loài khỉ, biết dùng lửa.
Cuộc sống ngày càng phát triển, lao động tập thể ngày càng phức tạp đòi hỏi người cổ phải có những cử chỉ điệu bộ để giao tiếp với nhau. Cho đến khi điệu bộ không diễn tả nỗi suy nghĩ của trí óc thì tiếng nói ra đời. Tiếng nói chứng tỏ con người lúc này đã thực sự là Người. Các nhà bác họ gọi người cổ đại này là người Neanderthal*. Ngoài tiếng nói người Neanderthal còn biết chôn người chết. Sau cùng là Người Khôn ngoan hiện đại (Homo Sapiens Sapiens), cách nay khoảng ba vạn năm, hoàn toàn giống người hiện nay.
Các địa điểm tìm thấy người cổ ở Đông Nam Á
Đất nước Việt Nam của chúng ta cũng nằm trong sự tiến hóa chung ấy, không những thế, các nhà khoa học cho rằng Việt Nam có thể là một trong những vùng lãnh thổ quê hương của loài người. Việt Nam nằm giữa Java và Bắc Kinh là hai nơi đã phát hiện được những giống người vượn cổ và những di tích văn hóa thuộc Thời đại sơ kỳ đồ đá cũ. Đó là thời đại cổ xưa nhất khi mà loài người vừa bước ra từ thế giới động vật. Người ta còn phát hiện di tích văn hóa của thời đại này ở các nước láng giềng như Miến Điện (Myanmar), Thái Lan và Mã Lai (Malaysia).
Núi Đọ (xã Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa) là địa điểm đầu tiên thuộc thời đại sơ kỳ đồ đá cũ đã được phát hiện ở Việt Nam. Núi Đọ cách thị xã Thanh Hóa 9km thuộc xã Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Đây là một trái núi cổ, lớn, đỉnh cao 158m, có độ dốc thoải, đá bazan cổ màu xám – vàng nhạt, nằm trên hữu ngạn sông Chu và cách bờ sông bởi một dải đất hẹp. Trên sườn núi, cách chân núi 20-30m, có những tảng đá gốc lộ ra.
Trên sườn núi Đọ, các nhà khảo cổ học đã thu lượm được hàng nghìn sản phẩm đá có bàn tay gia công của người cổ hay còn gọi là người nguyên thủy. Song, các hiện vật này hình loại còn đơn giản, chế tạo còn thô sơ, bao gồm mảnh tước, hạch đá, công cụ chặt thô sơ, nạo, rìu tay…
Một phát hiện quí báu khác là trong các hang Thẩm Khuyên và Thẩm Hai ở xã Tân Văn, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn, đã tìm thấy những chiếc răng người nằm trong lớp trầm tích màu đỏ, chứa xương cốt các loài động vật thuộc trung kỳ thời cách tân*. Răng vừa có đặc điểm của răng người, vừa có đặc điểm của răng vượn, trong nhiều kích thước gần gũi với răng người vượn Bắc Kinh. Đó là dấu vết đầu tiên về người vượn ở Việt Nam, niên đại ước đoán là từ 25 đến 30 vạn năm.
Trong di chỉ còn có những răng và xương của quần thể động vật đã sống đồng thời với người vượn. Trong đó có những loài vẫn sống đến ngày nay như hổ, báo sao, lợn rừng, khỉ, nhím… và những loài đã bị tiêu diệt như gấu tre to lớn, voi răng kiếm và vượn khổng lồ.
Ở miền Nam nước ta, tại Hang Gòn (huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai) và Dầu Giây (Đồng Nai) và Vườn Dũ (xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) các nhà khoa học cũng đã tìm thấy một số đồ đá đẽo bằng đá bazan như rìu tay, công cụ đá ba mặt, công cụ nhiều mặt, mũi nhọn, nạo, nhiều hòn đá ném… Những phát hiện này góp phần khẳng định sự có mặt của người cổ thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá cũ trên vùng đất đỏ miền Đông Nam bộ. Như vậy, trên toàn cõi nước ta, từ Bắc vào Nam, vào thời đại đồ đá cũ cách nay hàng vạn năm đã có người cổ sinh sống.
Người cổ trên các địa điểm tìm thấy ở nước ta đã ở vào giai đoạn Người vượn đi thẳng, khá phát triển. Người vượn này sống thành từng bầy 20-30 người gọi là bầy người nguyên thủy. Các thành viên trong bầy đều bình đẳng, họ lao động chung với nhau và chia nhau thức ăn tìm được.
Công việc hàng ngày của người vượn là săn bắt và hái lượm. Việc săn bắt thường do đàn ông đảm nhiệm. Họ săn cả những loài thú lớn như voi răng kiếm, gấu tre, hổ, báo, vượn khổng lồ… Để săn được những thú lớn như thế họ phải đi thành nhóm, phối hợp chặt chẽ vì công cụ lúc đó chỉ mới là gỗ, tre và đá đẽo nhọn. Chính vì vậy, công việc săn bắn khá chật vật, những thứ săn bắt được thường rất ít ỏi và không đủ sống.
Nguồn thứ ăn có từ việc hái lượm các sản vật tự nhiên như hoa trái, búp non, rễ, lá, sâu bọ, trai ốc… dồi dào hơn. Việc này thường do phụ nữ đảm nhiệm. Họ hái lượm về cho các gia đình trong bầy ăn, số còn thừa cất để dành cho những ngày thời tiết xấu hay những lúc thức ăn khan hiếm.
Cũng vì thế, vai trò người mẹ lúc này là quan trọng. Người mẹ sinh con, hái lượm nuôi dưỡng cả gia đình và bầy tộc, nuôi dưỡng con cái bảo tồn nòi giống, quán xuyến công việc trong gia đình và trong bầy. Dòng họ lúc này được tính theo huyết thống người mẹ nên gọi là chế độ mẫu hệ. Còn người đàn ông, do việc săn bắt theo đuổi con mồi trong thời gian dài cuốn hút khiến họ ít chú ý đến công việc khác trong bầy.
Trải qua nhiều bước tiến hóa gian nan và lâu dài, Người vượn đứng thẳng mới trở thành Người khôn ngoan hay Người hiện đại (Homo Sapiens) như ngày nay. Ở hang Thẩm Ồm (xã Châu Thuận, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An) đã tìm thấy răng vừa mang đặc điểm của người vượn cổ vừa có đặc điểm của người hiện đại. Còn ở hang Hùm (xã Tân Lập, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái) lại tìm được răng người có nhiều đặc điểm hiện tại. Ở hang Kéo Lèng (xã Tô Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn), hang Thung Lang (phường Nam Sơn, thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình) cũng phát hiện răng và xương của người hiện đại có niên đại từ 30 đến 29 ngàn năm. Vậy người hiện đại xuất hiện rất sớm ở Việt Nam, có thể có niên đại từ 5 đến 4 vạn năm về trước.
Thời đại hậu kỳ đá cũ ở Việt Nam các nhà khảo cổ gọi là văn hóa Sơn Vi. Các bộ lạc chủ nhân văn hóa Sơn Vi đã cư trú trên địa bàn rất rộng ở miền Bắc nước ta. Dấu vết của văn hóa Sơn Vi đã tìm thấy từ Lào Cai, Yên Bái ở phía bắc đến Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía nam, từ Sơn La ở phía tây đến vùng sông Lục Nam ở phía đông. Thời này mật độ dân cư đã nhiều hơn trước, có những bộ lạc sống ở ngoài trời Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang cũng như trong các hang động núi đá vôi (Sơn La, Lai Châu). Họ dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ tiêu biểu của Sơn Vi là những hòn cuội được ghè đẽo ở rìa cạnh.
Cư dân văn hóa Sơn Vi sinh sống cách nay hơn một vạn năm. Họ vẫn là những bộ lạc săn bắt và hái lượm. Trong các hang của họ có xương răng của các loài trâu bò rừng, lợn rừng, hoẵng, nhím, dúi, khỉ… là dấu vết hoạt động săn bắt của họ. Ngoài ra người ta còn tìm thấy có xương cá và mai rùa. Họ còn có tục chôn người chết ngay tại nơi cư trú.
Tiếp theo cư dân văn hóa Sơn Vi và phát triển lên một bước là cư dân văn hóa Hòa Bình. Các bộ lạc Hòa Bình phân bố rộng rãi ở vùng núi Tây Bắc, trong các tỉnh Sơn La, Lai Châu; ở vùng núi đá vôi thành phố Hà Nội (phần đất Hà Tây cũ), Hòa Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Vình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Người Hòa Bình cũng thường sống trong hang động và mái đá. Công cụ tiêu biểu của văn hóa Hòa Bình là rìu ngắn, chày nghiền… làm bằng đá cuội, ghè đẽo một mặt, một mặt giữ nguyên hình đĩa, hình bầu dục hay hình hạnh nhân.
Cư dân văn hóa Hòa Bình đã biết làm nông nghiệp do việc họ bắt đầu định cư lâu dài thay vì du canh du cư như trước đây. Như vậy, trên cơ sở kinh tế hái lượm phát triển, người Hòa Bình đã thực hiện một bước nhảy vọt là biết đến nông nghiệp trồng rau củ, tiền thân của nông nghiệp trồng lúa.
Người Hòa Bình bước đầu đã có những hoạt động nghệ thuật sơ khai, đơn giản. Họ biết khắc hình thú vật, mặt người, cây lá lên vách đá nơi cư trú, trên xương hay trên những viên đá cuội. Họ còn dùng thổ hoàng để vẽ hay bôi trên thân mình. Người ta cũng tìm thấy đồ trang sức, thường là vỏ ốc biển được mài thủng lưng, xâu dây đeo như các vòng đeo cổ, tay, chân của con người ngày nay.