Tập 1: Người cổ Việt Nam

Ngôi sao chính là một biểu tượng thờ thần mặt trời của các cư dân nông nghiệp.

Chim bay ngược chiều kim đồng hồ có trên hầu hết các loại trống đồng. Số lượng chim trên các trống khác nhau, nhiều nhất là 18 con và ít nhất là 4 con.

16 con chim bay trên các mặt trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ…, 6 con bay trên các trống Đông Sơn, Hà Nội…, 4 con bay trên các trống Núi Gôi, Ngọc Lũ II…

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, hình ảnh này mang ý nghĩa tín ngưỡng vật cổ – một tín ngưỡng phổ biến của các cư dân nông nghiệp thời cổ đại. Và, cũng có thể là một cách hình tượng hóa truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” của dân tộc Việt hoặc “Đẻ đất đẻ nước” của dân tộc Mường.

Hình hươu được trang trí trên trống Ngọc Lũ I gồm hai nhóm. Mỗi nhóm 10 con chạy ngược chiều kim đồng hồ, đối xứng nhau.

Hình bò được trang trí trên trống Đồi Ro, Làng Vạc I, vẽ đối xứng nhau ở hai mặt của tang trống.

Tượng cóc được đúc trên mặt trống ở vị trí cách đều nhau, phổ biến là 4 con. Loại hình tượng này được trang trí trên các trống Phú Phương, Đa Bút, Thôn Mống…

Hình tượng những con vật hiền lành xen vào những con chim đang bay, biểu hiện một cuộc sống êm đềm giàu chất thơ của cộng đồng cư dân Việt cổ trong những vùng nông thôn cổ đại.

Ta cũng được biết đến đội thủy binh của người Việt cổ qua những hình thuyền có dáng hình vòng cung, mũi và đuôi rắn cong lên, chạm khắc theo hình đầu chim.

Số người trên thuyền dao động từ 5 đến 8 người, không giống nhau giữa các thuyền.

Những người đi trên thuyền gồm có: Người chỉ huy đội mũ lông chim cầm dùi gõ trống, thủy binh đánh gần cầm các loại vũ khí như giáo, rìu chiến và thủy binh đánh xa cầm cung. Những hình ảnh này thường thấy trên các trống có niên đại sớm như trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ.

Những trống có niên đại muộn như trống Đồi Ro, hình thuyền đơn giản hơn và cong nhẹ. Những người ngồi trên thuyền đang thong thả chải dầm, vượt nước về phía trước.

Trên mặt trống còn có hình ảnh từng tốp vũ công từ 4, 6 đến 7 người, mặc những bộ trang phục lễ hội có vạt dài, đội mũ lông chim, tay cầm khèn hoặc cầm rìu chiến, giáo. Có người hay tay xòe ra, thể hiện những động tác vừa đi vừa múa, chuyển động nhịp nhàng từ phải qua trái. Điều đó khiến ta có cảm giác là chính những nhịp điệu phát ra từ trống, từ khèn, tạo nên những cung điệu trầm bổng cho những bước đi của các vũ công.

Tự thân các động tác đó trên mặt trống nói lên trình độ của nghệ thuật múa thời Đông Sơn.

Mặt trống đồng Đông Sơn giúp chúng ta biết được hai loại kiến trúc nhà cửa của người Việt cổ: Nhà mái cong và nhà sàn mái tròn.

Hình khắc ngôi nhà trên mặt trống được đơn giản hóa trong cách thể hiện. Nhà mái tròn có hai chắn phên được trang trí vòng tròn nối tiếp. Nhà mái cong, có hai mái cong lên như hai mũi một con thuyền. Nóc nhà có hình hai con chim. Ở giữa nhà có những vạch ngang như hình những bậc thang để trèo.

Đây là kiểu nhà của người Việt cổ thời đại đồng – sắt. Vết tích của nó còn lưu lại trong các di tích khảo cổ học Đông Sơn, Thiệu Dương vùng châu thổ sông Mã.

Trống đồng còn cho ta thấy hình ảnh trang phục lễ hội của người Việt cổ.

Chiếc mũ làm bằng lông vũ có thể lấy từ lông cánh, lông đuôi chim, dựng đứng xung quanh đầu các vũ công. Phía trước mặt được cắm những bông lau cao hơn lông chim.

Váy choàng dài cũng được làm bằng lông chim.

Dù lông vũ, bông lau trong những trang phục lễ hội còn có mặt trong các truyền thuyết của dân tộc Việt và các dân tộc ít người khác: chiếc áo choàng lông ngỗng của Mỵ Châu, bông lao làm áo cho Thánh Gióng… hoặc lấy lông vũ làm áo là một tục lệ cổ truyền của dân tộc Tày ở vùng Tây Bắc Việt Nam.

Những hình người trên trống đồng cho thấy người Việt cổ có chung một kiểu tóc cắt xõa ngang vai cho cả phụ nữ lẫn nam giới. Kiểu tóc này được thể hiện rõ trên mặt các trống Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ.

Ngoài ra còn có kiểu tóc ngắn trên trống Đồi Ro (Hòa Bình) hoặc túm sau đầu rồi thả dài xuống, trên trống Đại Vũ (Nam Hà).

Các kiểu trang phục, các kiểu tóc của người Việt cổ cho thấy tư duy thẩm mỹ đã trở thành những chuẩn mực xã hội trong các sinh hoạt cũng như sáng tạo nghệ thuật.

Hình ảnh một xã hội văn minh đầy sức sống trong buổi bình minh dựng nước ngày càng rõ nét dọc hai bên các dòng sông lớn ở đồng bằng Bắc bộ.

Những vòng tròn đồng tâm, những tam giác cách đều nhau, những dấu chấm nhỏ đậm đặc, những hình chữ S xoắn kép hoặc nối đuôi nhau trong một không gian hẹp của hai đường thẳng song song là những hình được thể hiện hoàn chỉnh trên hầu hết các trống đồng Việt Nam. Đây là những kiểu hoa văn hình học được tìm thấy từ văn hóa Phùng Nguyên – sơ kỳ thời đại đồ đồng thau.

Cách bố trí cân đối, cách đều, đối xứng và hợp lý các kích thước từ họa tiết đến cấu tạo trống đồng, đã thể hiện một tư duy toán học và mỹ học được hoàn thiện khá sớm của các cộng đồng người Việt cổ.

Trước hết trống đồng là một nhạc khí thuộc bộ gõ, việc sử dụng trống đồng trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Việt cổ mang nhiều ý nghĩa.

Qua tài liệu dân tộc học, sử học, khảo cổ học cùng với nghệ thuật tạo hình trên những họa tiết của trống Đông Sơn, cho thấy trống được sử dụng trong những ngày lễ hội hoặc cầu mong mưa thuận gió hòa của cả cộng đồng. Hình ảnh này ngày nay còn đọng lại trong các nghi lễ hội hè, đình đám, ma chay của một số dân tộc ít người trên đất nước ta. Hoặc phảng phất trong những nghi thức tế lễ đình làng của người Việt mà chiếc trống đồng được thay bằng chiếc trống da.

Trống đồng còn được dùng làm hiệu lệnh triệu tập mọi người trong công xã mỗi khi có việc công.

Trống đồng cũng được sử dụng như lời hiệu triệu, truyền tải những hiệu lệnh của các chức sắc địa phương và mệnh lệnh của quân đội.

Trống đồng còn là vật tùy táng. Với quan niệm chết là sống ở một thế giới khác, trong những di tích khảo cổ học làng Vạc (Nghệ An), Việt Khê (Hải Phòng) cho thấy người ta chôn theo người chết trống đồng cùng với những di vật khác như giáo, lao, rìu đồng…

Muốn đúc trống, khâu đầu tiên là phải làm vật mẫu. Vật mẫu được nhiều người chấp nhận nhất là làm bằng sáp ong, vì đấy là loại chất liệu dễ tạo hình cũng như dễ chạm khắc những họa tiết phức tạp.

Khuôn được làm bằng đất sét với hai mảnh được ghép khớp vào nhau. Điều này được xác định bởi một đường chỉ cắt trống ra làm hai phần đều nhau còn để lại vết tích trên tang trống. Mặt trống được cấu tạo từ một khuôn hình tròn khác được đặt lên trên.

Để tạo được khuôn người ta đốt cho vật mẫu chảy ra và khuôn được hoàn thành. Một trống nhỏ hơn không trang trí được đặt bên trong khuôn.

Khuôn hoàn thành người ta rót đồng vào trong các lỗ (đậu rót) và phân bố đều trên mặt khuôn tạo thành trống.

Hợp kim sử dụng để đúc trống là đồng – chì – thiếc với nhiệt độ trung bình khoảng 12000C.

Đây là những phác thảo đơn giản của việc đúc một trống đồng. Tuy nhiên hiện nay việc nghiên cứu kỹ thuật đúc trống còn dừng lại ở giả thuyết.

Không phải ngẫu nhiên trống đồng Đông Sơn trở thành biểu tượng của văn minh Việt Nam.

Giá trị văn hóa, lịch sử khởi đi từ 2.500 năm trước được phản ảnh từ kỹ thuật đúc đến kiểu dáng, họa tiết, trang trí và âm thanh khiến trống đồng Đông Sơn không chỉ được đặt trang trọng trong các bảo tàng địa phương như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thanh Hóa… mà còn ở các bảo tàng nổi tiếng trên thế giới như: Paris, London, Thái Lan, Indonesia…

Âm vang giòn giã của tiếng trống từ những cuộc chiến đấu dựng nước và giữ nước thời Hùng Vương gắn liền với những chiến thắng chống ngoại xâm Tần, Hán, Nguyên Mông, Mãn Thanh… của dân tộc Việt vang vọng đến ngày nay để trở thành niềm tự hào và là biểu tượng cao quí trong lòng người dân Việt.

SƠ ĐỒ PHÂN KỲ THEO KHẢO CỔ HỌC Ở VIỆT NAM

SƠ ĐỒ THUYẾT TIẾN HÓA

THƯ MỤC THAM KHẢO

PHẦN NGƯỜI CỔ VIỆT NAM

  • Lịch sử Việt Nam tập 1, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh – Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983.
  • Cơ sở khảo cổ học, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Diệp Đình Hoa, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978.
  • Hùng Vương dựng nước tập IV, Viện Khảo cổ học, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974.
  • Các chủng tộc loài người, Nguyễn Quang Quyền, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1983.
  • Việt Nam sử lược quyển thượng in lần thứ hai, Trần Trọng Kim, Imprimer, Vĩnh Thành, Hà Nội, 1928.

PHẦN TRỐNG ĐỒNG VIỆT NAM

  • Tạp chí khảo cổ học số 13/1974, Hà Nội, 1974.
  • Đông Sơn drums, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

LỊCH SỬ VIỆT NAM BẰNG TRANH TẬP 1

NGƯỜI CỔ VIỆT NAM

Trần Bạch Đằng chủ biên

Đinh Văn Liên – Bùi Chí Hoàng biên soạn

Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN MINH NHỰT Chịu trách nhiệm nội dung: NGUYỄN THẾ TRUẬT Biên tập: LIÊN HƯƠNG – CÚC HƯƠNG

Biên tập tái bản: TÚ UYÊN Bìa: BIÊN THÙY

Sửa bản in: ĐÌNH QUÂN Trình bày: VẠN HẠNH

NHÀ XUẤT BẢN TRẺ